Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng: Quản lý nợ công phải gắn với hiệu quả sử dụng vốn vay
Tại phiên thảo luận tổ sáng ngày 3/11 về dự thảo Luật Quản lý nợ công (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết, hiện nay vẫn còn nhiều dự án sử dụng vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi đã hết thời hạn hiệp định nhưng chưa giải ngân hết, dẫn đến tình trạng công trình dở dang, phải tìm kiếm nguồn vốn khác để tiếp tục thực hiện.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, các khoản vay ODA trong thời gian qua đã góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, quá trình triển khai thực tế vẫn còn nhiều vướng mắc, đặc biệt là thủ tục kéo dài và chậm giải ngân. Ông cho biết, thời gian từ khi khởi động đàm phán đến khi ký kết hiệp định vay thường mất vài năm, khiến nhiều hiệp định khi có hiệu lực đã trôi qua một nửa thời gian thì dự án mới bắt đầu giải ngân.
“Có những dự án hết thời hạn hiệp định mà vẫn chưa giải ngân xong, phải đàm phán gia hạn. Nhiều trường hợp, nhà tài trợ không đồng ý kéo dài thời gian vay, khiến dự án phải tạm dừng hoặc chuyển sang tìm nguồn vốn khác để hoàn thiện”, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng chia sẻ.

Ông cũng thẳng thắn nhìn nhận rằng một phần nguyên nhân đến từ khâu chuẩn bị của các cơ quan, địa phương chưa kỹ lưỡng, dẫn đến việc phát sinh thêm thủ tục trong quá trình triển khai, ảnh hưởng đến tiến độ và hiệu quả đầu tư.
“Các quốc gia vay nhiều vẫn có thể duy trì nợ công ở mức cao - 150%, thậm chí 200% GDP vì họ quản lý và sử dụng vốn vay hiệu quả. Việt Nam cũng cần hướng tới nguyên tắc đó: vay phải gắn liền với hiệu quả đầu tư và phát triển”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính, việc sửa đổi Luật Quản lý nợ công lần này nhằm xử lý các bất cập, thống nhất đầu mối quản lý vốn vay, đồng thời rút ngắn quy trình và nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan. Trước đây, việc vay và quản lý vốn ODA thường phải qua hai đầu mối là Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính, khiến thủ tục bị kéo dài, giảm tính linh hoạt.
Song song với sửa luật, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ Nghị định về quản lý vốn ODA theo hướng rút ngắn quy trình và tăng tính chủ động. Cụ thể, các khoản vay thông thường phải hoàn tất thủ tục trong 12 tháng, còn các dự án phức tạp tối đa 14 tháng để ký hiệp định vay vốn.
Dự thảo Luật sửa đổi cũng đề xuất phân cấp và trao thêm quyền chủ động cho Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính và các địa phương, doanh nghiệp nhà nước trong việc đề xuất, thẩm định và sử dụng vốn vay.
Theo đó, các đơn vị có thể lập đề xuất vay vốn gửi Bộ Tài chính thẩm định, trình Thủ tướng phê duyệt làm cơ sở triển khai. Hồ sơ đề xuất chỉ yêu cầu những thông tin cơ bản như giá trị khoản vay, nhà tài trợ và mục đích sử dụng, thay vì phải lập báo cáo chủ trương đầu tư phức tạp như trước đây. Việc rút gọn này giúp giảm thời gian xét duyệt từ vài năm xuống còn khoảng một tháng, đồng thời tăng tính linh hoạt trong huy động vốn cho phát triển.
Một nội dung khác nhận được sự quan tâm tại phiên thảo luận là cơ chế cho vay lại vốn ODA và vốn vay ưu đãi. Theo dự thảo, các ngân hàng thương mại sẽ thực hiện cho vay lại đối với đơn vị sự nghiệp công lập, theo phương thức “ngân hàng không chịu rủi ro tín dụng”.
Tuy nhiên, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn bày tỏ lo ngại rằng nếu ngân hàng không chịu rủi ro thì quy trình thẩm định có thể thiếu chặt chẽ, tiềm ẩn nguy cơ nợ xấu và gánh nặng tài chính cho ngân sách nhà nước.
Ông nhấn mạnh: “Lo nhất là vốn vay không được sử dụng đúng mục đích, trong khi ngân hàng thiếu hướng dẫn, thiếu cơ chế giám sát.” Chủ tịch Quốc hội đề nghị làm rõ trách nhiệm của ngân hàng thương mại trong việc thẩm định phương án tài chính, cũng như xử lý khi xảy ra rủi ro nợ vay.
Về nội dung quản lý nợ công, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng cho biết dự thảo luật lần này bổ sung các quy định nhằm kiểm soát nợ công chặt chẽ và bền vững hơn. Theo báo cáo của Chính phủ, tổng nhu cầu vay năm 2026 dự kiến khoảng 970.000 tỷ đồng, tăng 19% so với kế hoạch 2025.
Đến cuối năm 2025, các chỉ tiêu nợ công của Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an toàn được Quốc hội phê duyệt, với nợ công ở mức 35–36% GDP, nợ nước ngoài 31 - 32% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ chiếm 19 - 20% tổng thu ngân sách và nghĩa vụ trả nợ nước ngoài chiếm 6 - 7% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ.
Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhận định, nợ công là yếu tố gắn liền với niềm tin của người dân và nhà đầu tư quốc tế. Ông nói: “Người dân lo ngại khi thấy nợ công tăng, nhưng thực tế các quốc gia phát triển đều có mức vay cao để đầu tư cho tăng trưởng. Quan trọng không phải là vay bao nhiêu, mà là vay để phát triển và sử dụng hiệu quả từng đồng vốn vay”.
Trong bối cảnh Việt Nam đang tập trung triển khai hàng loạt dự án hạ tầng chiến lược, như đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, đường sắt đô thị Hà Nội và TP.HCM, việc huy động và quản lý hiệu quả nguồn vốn vay được xem là yếu tố then chốt để duy trì đà tăng trưởng bền vững.
“Chúng ta phải rà soát kỹ, tính toán tổng thể giữa vay của Trung ương và vay của địa phương, đảm bảo cân đối hài hòa, phát triển ổn định lâu dài”, ông Mẫn nhấn mạnh.
Theo chương trình làm việc, dự thảo Luật Quản lý nợ công (sửa đổi) sẽ được Quốc hội thảo luận tại hội trường vào ngày 18/11 và biểu quyết thông qua vào ngày 11/12. Dự luật này được kỳ vọng sẽ tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ, tăng hiệu quả sử dụng vốn vay và đảm bảo an toàn tài chính quốc gia trong giai đoạn phát triển mới.