Toàn cảnh

Các động lực tăng trưởng của TP.HCM và cơ hội cho doanh nghiệp

Anh Vĩnh - Hưng Khánh 25/10/2025 06:00

Đại hội Đại biểu Đảng bộ TP.HCM lần thứ I, Thành phố đã thông qua Nghị quyết với 30 chỉ tiêu phát triển chủ yếu cho giai đoạn 2025 - 2030. Để hiện thực hóa các mục tiêu này, TP.HCM cần một hệ thống động lực đủ mạnh. Webinar với chủ đề “Các động lực tăng trưởng của TP.HCM và cơ hội cho doanh nghiệp” do Tạp chí Doanh Nhân Sài Gòn và Viện Sáng kiến Việt Nam tổ chức sáng 22/10 đã đưa ra góc nhìn và chia sẻ ý kiến từ các diễn giả.

b1-.jpg

Khơi thông động lực tăng trưởng

TP.HCM đang đặt ra mục tiêu tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2025 - 2030, cụ thể là tốc độ tăng trưởng 10-11%, cho thấy quyết tâm của trong việc khôi phục vai trò đầu tàu kinh tế của TP.HCM…

1. Khoảng cách giữa khát vọng và năng lực thực thi

Mở đầu phần trình bày tại tọa đàm, TS. Huỳnh Thế Du - Thành viên Viện Sáng kiến Việt Nam, giảng viên thỉnh giảng Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright chia sẻ mục tiêu tăng trưởng hai chữ số của Thành phố và cho rằng, khoảng cách giữa mục tiêu và hiện thực là do giới hạn về thể chế và năng suất lao động.

TP.HCM đang đặt ra mục tiêu tăng trưởng hai chữ số cho giai đoạn 2025 - 2030, cụ thể là tốc độ tăng trưởng 10-11%, cho thấy quyết tâm của trong việc khôi phục vai trò đầu tàu kinh tế của TP.HCM, nhưng cũng là thách thức vì thực tế cho thấy đang có khoảng cách còn rất xa. Số liệu 15 năm qua cho thấy, giai đoạn 2010 - 2024, tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân của TP.HCM chỉ đạt khoảng 5,4%/năm; giai đoạn tốt nhất 2010 - 2019 là khoảng 6,7%; sau đại dịch Covid-19 chỉ còn 3,6%. Nếu lạc quan, đạt được mức 7% đã là rất lớn, chứ mục tiêu 10-11% thì cực kỳ thách thức.

Điều đáng lo hơn cả không nằm ở khát vọng, mà ở năng lực huy động và sử dụng nguồn lực. Hiện chi ngân sách của TP.HCM chỉ chiếm khoảng 8,4% GDP, trong khi Bangkok là 19%, Manila 17%, Jakarta 16%. Một đô thị lớn mà chi ngân sách thấp thì rất khó giải quyết các vấn đề hạ tầng, giao thông, môi trường, nhà ở… mà vẫn mong duy trì tốc độ tăng trưởng cao.

Ngoài ra, năng lực tài chính của TP.HCM đang bị bó hẹp. Thành phố đóng góp khoảng 27% ngân sách quốc gia, nhưng chỉ được giữ lại khoảng 18%. Trong khi đó, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công chỉ đạt khoảng 70 - 73% những năm gần đây. Một phần tư nguồn lực có sẵn mà chưa giải ngân được thì khó huy động thêm. Vấn đề không phải là thiếu tiền, mà là không giải phóng được năng lực thực thi.

b1.jpg
TP.HCM đang đứng trước thời điểm phải tái cấu trúc lại chính mô hình tăng trưởng

Có thể gọi đây là tình trạng “nghiện cơ chế” - khi địa phương cứ trông chờ vào các chính sách đặc thù thay vì tập trung vào tổ chức thực hiện. Chúng ta không thể cứ mãi “xin thêm quyền”, mà phải biết dùng quyền hiện có một cách hiệu quả nhất. Cái Thành phố cần bây giờ là thực thi.

So sánh với quốc tế để thấy rõ vị trí của TP.HCM. Trong nhóm 12 đô thị lớn châu Á gồm Tokyo, Thượng Hải, Singapore, Seoul, Bangkok, Manila, Jakarta… TP.HCM hiện chỉ xếp hạng 102 toàn cầu. So với Jakarta, thành phố thua khoảng 20 bậc, và nếu tính về năng lực phát triển đô thị. TP.HCM đi sau Bangkok, Kuala Lumpur, Manila khoảng 25 năm; Hồng Kông và Seoul 30 năm; Tokyo khoảng 50 năm.

Khoảng cách này không phải vì thiếu tiềm năng mà do giới hạn về thể chế và năng suất lao động. Năng suất lao động của TP.HCM hiện thấp hơn mức bình quân của Singapore khoảng 8 lần, Kuala Lumpur 3 lần, Bangkok 1,8 lần. Nếu muốn rút ngắn khoảng cách trong 20 năm tới, chúng ta không thể chỉ dựa vào mở rộng vốn, mà phải dựa vào năng suất và đổi mới sáng tạo.

2. Đẩy mạnh động lực tăng trưởng truyền thống, khơi thông động lực mới

Ông Đặng Quang Vinh - Chuyên gia cao cấp về phát triển kinh tế tư nhân, Ngân hàng Thế giới, cho rằng TP.HCM đang đứng trước thời điểm phải tái cấu trúc lại chính mô hình tăng trưởng của mình.

Trong suốt hơn một thập niên qua, Thành phố tăng trưởng phần lớn nhờ mở rộng quy mô: thêm lao động, thêm vốn đầu tư, chứ chưa dựa nhiều vào năng suất và đổi mới sáng tạo. Đây là giai đoạn mà mô hình tăng trưởng cũ đã chạm ngưỡng. Nếu muốn bước sang giai đoạn mới, TP.HCM phải chuyển động từ “mở rộng” sang “nâng chất”. Và muốn nâng chất, thì điều đầu tiên phải thay đổi là thể chế.

Thể chế chính là động lực tăng trưởng hàng đầu, không chỉ vì TP.HCM có nhiều ý tưởng mà vì những ý tưởng đó không được thực thi nhanh và dứt khoát. Các đô thị phát triển nhanh trên thế giới đều có đặc điểm chung: bộ máy hành chính năng động, phân cấp sâu và phối hợp liên vùng hiệu quả. Ở TP.HCM, nếu cơ chế phân cấp về tài chính, đầu tư, nhân sự được vận hành đúng, không chồng chéo và không sợ trách nhiệm, thì đó chính là động lực tăng trưởng lớn nhất. Một đô thị không thể đòi hỏi sự năng động của doanh nghiệp nếu bản thân bộ máy hành chính không dám ra quyết định nhanh.

Thứ hai là hạ tầng phát triển đồng bộ đang là điểm nghẽn lớn nhất của TP.HCM. Không chỉ là hạ tầng giao thông, mà còn là hạ tầng dữ liệu, năng lượng, logistics và môi trường. Một đô thị mười triệu dân mà giao thông chủ yếu vẫn ở mặt đất, logistics phụ thuộc đường bộ, hạ tầng số phân tán thì rất khó tăng trưởng nhanh. Tăng trưởng phải đi cùng một không gian phát triển đa tầng: metro, logistics xanh, cảng thông minh, và dữ liệu dùng chung. Năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp TP.HCM có thể tăng ít nhất 15 - 20% nếu hạ tầng được cải thiện đồng bộ theo hướng thông minh và xanh hóa.

820-lung-linh-cang-bien-trongluan-compressed.jpg
Hạ tầng là một nút thắt TP.HCM cần tập trung tháo gỡ

Nhưng động lực bền vững nhất, phải đến từ khu vực tư nhân năng động, đóng góp hơn 50% GRDP và 70% việc làm, nhưng mức độ hỗ trợ về thể chế, tín dụng và cơ sở dữ liệu thì chưa tương xứng. Nếu thực hiện được hợp tác công tư thật sự, không hình thức, doanh nghiệp tư nhân sẽ trở thành động cơ chính cho tăng trưởng. Ví dụ, trong các mô hình thành công mà Ngân hàng Thế giới hỗ trợ tại châu Á, chính quyền địa phương chỉ đóng vai trò kích hoạt, “tạo không gian, doanh nghiệp sẽ tự phát triển”. Hiện, TP.HCM có đầy đủ tiềm năng để đi theo hướng này, nếu tận dụng hiệu quả Nghị quyết 98 để thử nghiệm các mô hình mới như PPP thực chất, sandbox cho tài chính số, hay trái phiếu đầu tư đô thị.

3. Các động lực tăng trưởng của TP.HCM đang dịch chuyển mạnh

Bà Nguyễn Trúc Vân - Giám đốc Trung tâm Mô phỏng và Dự báo Kinh tế - Xã hội, Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM (HIDS), cho rằng: nếu trước đây, Thành phố dựa vào công nghiệp chế biến và bất động sản, thì nay, các trụ mới sẽ là tài chính quốc tế, kinh tế số và kinh tế xanh.

Nghị quyết Đại hội Đảng bộ TP.HCM đã xác định rõ mục tiêu xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế Việt Nam đặt tại TP.HCM. Hiện đề án này đã được trình lên Chính phủ, và Bộ Tài chính đang hoàn thiện nghị định hướng dẫn thành lập. TP.HCM đã ký Biên bản ghi nhớ (MOU) với NASDAQ - sàn chứng khoán lớn thứ hai thế giới, mở ra cơ hội kết nối dòng vốn quốc tế. Đây không chỉ là biểu tượng, mà là nền tảng để xây dựng hệ sinh thái tài chính, công nghệ và đổi mới sáng tạo,.

Song song, Thành phố cũng đang làm việc với các tập đoàn công nghệ tài chính, trong đó có Binance để phát triển lĩnh vực tài sản số và blockchain, coi đây là một cấu phần trong trung tâm tài chính quốc tế tương lai. Nếu cơ chế đặc thù được vận hành thông suốt, TP.HCM có thể trở thành trung tâm thử nghiệm (sandbox) cho các sản phẩm tài chính mới, từ tài sản số đến giao dịch xuyên biên giới, qua đó thu hút nguồn vốn và công nghệ.

546546.jpg
Sau khi mở rộng địa giới hành chính, TP.HCM có thêm nhiều không gian phát triển

Động lực tiếp theo từ góc nhìn của bà Vân là kinh tế số. Hiện khu vực này chiếm khoảng 18% GRDP TP.HCM, dự kiến đạt 25% vào năm 2025. Thành phố có hạ tầng viễn thông và nhân lực công nghệ tốt, nhưng điều quan trọng là phải gắn chuyển đổi số với đổi mới mô hình kinh doanh. Doanh nghiệp nhỏ và vừa cần được hỗ trợ chuyển đổi quy trình, không chỉ phần mềm kế toán hay bán hàng.

Cùng với đó, kinh tế xanh được xem là hướng đi chiến lược trong 10 năm tới. HIDS dự báo đến năm 2030, nếu áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải, TP.HCM có thể tăng năng suất lao động 7 - 8% mỗi năm và giảm 30% chi phí năng lượng. Đây không phải là câu chuyện môi trường, mà là động lực kinh tế mới. Những doanh nghiệp đi đầu chuyển đổi xanh sẽ là những người dẫn đầu thị trường xuất khẩu.

Tuy nhiên, hiệu quả đầu tư của TP.HCM đang giảm. Nếu giai đoạn 2011 - 2015, cần 4,3 đồng vốn để tạo ra 1 đồng GDP, thì giai đoạn 2021 - 2024 phải cần đến 6,5 đồng. Tức là chúng ta đang phải chi nhiều hơn mà kết quả lại thấp hơn”. Do đó, tăng trưởng cao không thể chỉ dựa vào mở rộng vốn, mà phải dựa vào tăng năng suất, cải thiện thể chế, và quản lý rủi ro.

b1-(1).jpg
Tài chính quốc tế, kinh tế số, kinh tế xanh sẽ là các động lực mới

4. Tập trung vào các chỉ tiêu dẫn dắt

Ông Lê Phụng Hào - Chủ tịch Global AAA Consulting, cho rằng: Thành phố đặt ra đến 30 chỉ tiêu phát triển, nhưng nếu không biết đâu là chỉ tiêu chủ lực thì nguồn lực sẽ bị phân tán. Giống như một doanh nghiệp có hàng chục mục tiêu cùng lúc, nhưng chỉ khi xác định được 2 - 3 mục tiêu chiến lược thì mới tạo được sức bật.

Các chỉ tiêu dẫn dắt của TP.HCM nên tập trung vào bốn nhóm: Hạ tầng và logistics - để giảm chi phí vận chuyển và tăng kết nối vùng; Đổi mới sáng tạo và công nghệ cao - làm nền cho năng suất; Dịch vụ tài chính và thương mại quốc tế - để dẫn dắt khu vực dịch vụ; Môi trường đầu tư và cải cách hành chính - yếu tố niềm tin cho doanh nghiệp. “Nếu giải quyết được bốn trụ này, tốc độ tăng trưởng tự nhiên của TP.HCM có thể đạt 8 - 9%, và khi đó mục tiêu 10 - 11% không còn quá xa.

Đồng tình, TS. Huỳnh Thế Du cho rằng nên chọn ra 3 - 4 chỉ tiêu thật sự có sức kéo, chứ không thể dàn hàng ngang. Điều quan trọng nhất là phải sắp xếp lại hệ thống chỉ tiêu theo mức độ khả thi và tác động lan tỏa. Cụ thể, theo ông Du, TP.HCM cần tập trung vào hiệu quả đầu tư công và năng suất lao động, vì hai yếu tố đó quyết định toàn bộ khả năng tăng trưởng. Đầu tư công chính là động lực trực tiếp: khi giải ngân tốt, hạ tầng được kích hoạt, khu vực tư nhân mới có đất sống. Trong khi đó, năng suất là động lực căn cơ - không có năng suất thì tăng trưởng nào cũng ngắn hạn.

Tôi cho rằng trong 30 chỉ tiêu, có ba nhóm cần khởi động song hành: phát triển trung tâm tài chính quốc tế, thúc đẩy kinh tế số và đổi mới sáng tạo, và tăng năng suất lao động. Đây là ba trụ thể hiện sự chuyển đổi mô hình tăng trưởng của TP.HCM từ chiều rộng sang chiều sâu. Khi ba lĩnh vực này được thực thi đúng, nó sẽ kéo theo chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng giá trị gia tăng trong dịch vụ và sản xuất, đồng thời tạo niềm tin cho khu vực tư nhân đầu tư dài hạn. Nếu chỉ làm những việc dễ, chúng ta sẽ mãi loanh quanh ở mức tăng 6 - 7%. Còn nếu dám khởi động các trụ mang tính nền tảng như tài chính quốc tế và kinh tế số, Thành phố mới có thể bước sang giai đoạn phát triển khác hẳn.

Bà Nguyễn Trúc Vân - Giám đốc Trung tâmMô phỏng và Dự báo Kinh tế - Xã hội, Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM (HIDS)

Nếu hỏi chỉ tiêu nào nên đi trước, tôi nghĩ phải bắt đầu từ đầu tư công và chuyển đổi số trong quản trị công. Hai việc này không chỉ mở dòng tiền, mà còn thay đổi cách vận hành của cả Thành phố. Đầu tư công có tác động lan tỏa tức thì, trong khi chuyển đổi số tạo ra hiệu ứng lâu dài. Khi đầu tư công tăng tốc, hạ tầng được mở, doanh nghiệp sẽ nối theo. Còn khi chính quyền số vận hành, mọi thủ tục, cấp phép, đấu thầu… minh bạch hơn, chi phí tuân thủ giảm, đó là môi trường kinh doanh thật sự. Ngoài ra, TP.HCM nên xem công nghiệp sáng tạo - bao gồm thiết kế phần mềm, nội dung số, truyền thông và bản quyền… là một động lực tăng trưởng ẩn, không cần nhiều đất, nhiều vốn, nhưng tạo giá trị gia tăng rất cao.

Ông Trần Văn Phát - Viện trưởng Viện Kinh tế sáng tạo và Bản quyền số.

Các chuyên gia đều thống nhất rằng động lực tăng trưởng của TP.HCM trong giai đoạn tới phải đến từ bên trong, chứ không thể dựa mãi vào các chính sách đặc thù hay nguồn vốn bên ngoài. Đó chính là “sức bật nội sinh” - năng lực tổ chức, thực thi và đổi mới.

B2 KCN
Doanh nghiệp là trụ cột thực thi tăng trưởng

Cơ hội cho doanh nghiệp tư nhân

Khi Thành phố đặt mục tiêu tăng trưởng hai con số và mở rộng không gian kinh tế vùng, điều đó không chỉ là bài toán của chính quyền mà còn là bài kiểm tra năng lực thích ứng của cộng đồng doanh nghiệp. Tăng trưởng không đến từ những bản quy hoạch trên giấy, mà từ chính năng lực sản xuất, đổi mới và kết nối của từng ngành, từng doanh nghiệp trong chuỗi kinh tế đang mở rộng.

Bà Nguyễn Trúc Vân khẳng định, nếu nói về tăng trưởng xanh, kinh tế số hay trung tâm tài chính quốc tế, tất cả đều phải bắt đầu từ doanh nghiệp - họ mới là người đầu tư, đổi mới, và chuyển đổi công nghệ.

TS. Huỳnh Thế Du cũng nhìn nhận vai trò của doanh nghiệp tư nhân chính là trụ cột thực thi tăng trưởng. “Tăng trưởng không đến từ ngân sách hay đầu tư công, mà đến từ năng lực của khu vực tư nhân. Vấn đề là chính quyền có biết tạo môi trường cho họ phát huy hay không. Khi TP.HCM đặt mục tiêu mở rộng không gian vùng, điều cần làm không phải là dàn trải đầu tư, mà là tạo ra các cực tăng trưởng doanh nghiệp - nơi khu vực tư nhân có thể tự hình thành hệ sinh thái công nghiệp, dịch vụ và đổi mới sáng tạo”, ông nói.

“Chính quyền không thể làm thay doanh nghiệp. Nhưng nếu tạo được niềm tin, họ sẽ làm gấp mười lần kế hoạch nhà nước. Nếu chính quyền biết gõ đúng cửa, doanh nghiệp sẽ mở kho báu của họ ra. Còn nếu chỉ nói mà không làm, thì họ sẽ im lặng”

Ông Huỳnh Thế Du

Dưới lăng kính của ngành gỗ, ông Nguyễn Chánh Phương - Phó Chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.HCM (HAWA) cho rằng, doanh nghiệp gỗ đang giữ một vị trí đặc biệt trong chiến lược tăng trưởng của TP.HCM, khi khu vực này đang hình thành một tam giác kinh tế hoàn chỉnh giữa TP.HCM - Bình Dương - Bà Rịa-Vũng Tàu đã chiếm hơn 50% kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam, trong đó Bình Dương đạt hơn 7 tỷ USD, TP.HCM khoảng 1,2 tỷ USD, đứng thứ ba cả nước sau Đồng Nai. Cấu trúc vùng này đã hình thành một chuỗi cung ứng và hệ sinh thái ngành gỗ tương đối hoàn chỉnh: Bình Dương là trung tâm sản xuất và công nghiệp chế biến; TP.HCM là trung tâm thương mại, thiết kế và dịch vụ tài chính; còn Bà Rịa - Vũng Tàu đảm nhiệm vai trò cửa ngõ xuất khẩu. Nếu kết hợp hiệu quả, tam giác này có thể đưa TP.HCM và vùng phụ cận trở thành trung tâm xuất khẩu đồ gỗ của thế giới, sánh ngang với Quảng Đông (Trung Quốc), các trung tâm của Ý hay Đức…

Không chỉ là xuất khẩu, ông Phương cho biết thị trường nội địa cũng đang mở ra triển vọng mới. Khi quá trình đô thị hóa và hợp nhất không gian hành chính được đẩy nhanh, nhu cầu nội thất trong nước sẽ tăng mạnh. Khách hàng Việt Nam ngày nay không còn chỉ mua sản phẩm rẻ, mà đòi hỏi thẩm mỹ, tính bền vững và dịch vụ hậu mãi. Đây là cơ hội để doanh nghiệp gỗ quay lại phục vụ chính thị trường 100 triệu dân của mình. Ông cho biết thêm, trong thời gian gần đây, lượng nhập khẩu đồ gỗ cao cấp giảm hơn 20%, cho thấy cơ hội cho sản phẩm nội địa chất lượng cao đang rộng mở.

Ở bình diện quốc tế, dù thị trường Hoa Kỳ (chiếm 55% lượng xuất khẩu) đang chịu tác động bởi thuế phòng vệ thương mại (thuế 232, áp dụng với các quốc gia không chỉ Việt Nam), ngành gỗ Việt Nam vẫn duy trì mức tăng trưởng 6,2% trong 9 tháng đầu năm 2025, thậm chí còn là lợi thế để cạnh tranh công bằng. Theo ông Phương, đây là tín hiệu tích cực, chứng tỏ năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam đủ mạnh để trụ vững và tiếp tục mở rộng thị phần trong bối cảnh toàn cầu nhiều biến động.

56546546.jpg
Mong muốn lớn nhất của cộng đồng doanh nghiệp là TP.HCM tạo được một không gian phát triển thật sự thuận lợi, sẵn sàng và thực tế

Để tận dụng được cơ hội này, chính quyền cần sớm nâng cấp không gian hành chính thành không gian kinh tế thống nhất, tạo điều kiện để dòng hàng hóa, dòng vốn, nhân lực và dữ liệu di chuyển thông suốt. Với công nghiệp chế biến, đổi mới sáng tạo, thương mại dịch vụ và logistics, nếu chúng ta kết hợp hài hòa, hiệu quả của trung tâm này sẽ được nhân lên gấp nhiều lần. Ngành gỗ có thể trở thành một động lực tăng trưởng mới của TP.HCM trong giai đoạn hợp nhất vùng. Đó không chỉ là câu chuyện của xuất khẩu, mà còn là sự đóng góp thực chất cho tăng trưởng đô thị hóa, cho việc hình thành một cực kinh tế bền vững dựa trên sáng tạo, công nghiệp và giá trị gia tăng cao. Trung tâm đồ gỗ của thế giới hiện hữu ngay tại đây, vấn đề là chúng ta có đủ quyết tâm và cách làm để biến nó thành hiện thực hay không”, ông Phương nhấn mạnh.

Theo ông Đặng Quang Vinh quá trình mở rộng không gian kinh tế vùng như một “làn gió mới” cho doanh nghiệp tư nhân. TP.HCM đang có cơ hội hiếm có để định hình lại vị thế của mình thông qua một mô hình hợp tác công - tư hiệu quả và linh hoạt hơn. Trong đó, Nghị quyết 98 là một bước ngoặt khi cho phép Thành phố phát hành trái phiếu đầu tư, triển khai các dự án PPP, mở hành lang giao thông, thử nghiệm sandbox cho tài chính và công nghệ. Nhưng điều quan trọng là, các cơ chế đó phải thật sự được vận hành, chứ không chỉ nằm trong văn bản. Nếu TP.HCM tận dụng tốt các quyền tự chủ mới, sẽ có khả năng kích hoạt dòng vốn tư nhân lớn, bởi “nhà đầu tư chỉ cần một tín hiệu: sự nhất quán và tốc độ hành động”.

Hai chỉ tiêu cần được coi là ưu tiên tuyệt đối phải là nâng cao chất lượng thể chế quản lý đô thị và phát triển hạ tầng đồng bộ - đặc biệt là hạ tầng số và logistics xanh. Đó là hai điều kiện đủ để mọi chỉ tiêu khác - kể cả trung tâm tài chính hay kinh tế số đều có thể bứt tốc. Điều quan trọng không phải đặt ra thêm mục tiêu, mà là làm tốt những nền tảng đang có để các mục tiêu tự mở đường cho nhau.

Ông Đặng Quang Vinh - Chuyên gia cao cấp về phát triển kinh tế tư nhân, Ngân hàng Thế giới

Ông Vinh cũng đề cập đến một “lợi thế mềm” mà không đô thị nào khác ở Việt Nam có được: môi trường thể chế cởi mở và năng lực con người của TP.HCM: Ở đây, doanh nhân dám nghĩ, dám thử, và chính quyền cũng đang bắt đầu dám thử nghiệm. Nếu hai bên cùng chia sẻ rủi ro, hợp tác công tư sẽ không còn là khái niệm, mà là công cụ phát triển thực tế. “Trong mô hình tăng trưởng mới, khu vực tư nhân sẽ là “động cơ trung tâm”, không chỉ tạo việc làm, mà còn dẫn dắt đổi mới công nghệ, nâng năng suất và hình thành các ngành công nghiệp mới. Đó là cách mà TP.HCM có thể duy trì vị thế đầu tàu, không phải bằng quy mô, mà bằng chất lượng tăng trưởng”, ông Vinh nhận định.

Ông Lê Phụng Hào thì cho rằng thời điểm này có thể ví như “mặt trời cơ hội đang lên đối với doanh nghiệp TP.HCM”. Điều kiện thuận lợi chưa bao giờ hội tụ như hiện nay: chính quyền có quyết tâm cải cách, cơ chế đặc thù đã mở đường, thị trường quốc tế đang tái cấu trúc chuỗi cung ứng, và doanh nghiệp Việt đang đứng ngay tại điểm giao thoa giữa nhu cầu và năng lực. Vấn đề còn lại là ai hành động nhanh, ai dám đi trước…

Ông Hào nhấn mạnh, trong tiến trình tăng trưởng mới, quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp phải được tái định nghĩa. “Nếu trước đây chính quyền lo cấp phép và kiểm soát, thì nay phải đóng vai trò kiến tạo. Còn doanh nghiệp không thể chỉ đợi chính sách, mà phải chủ động. Chính quyền kiến tạo - doanh nghiệp hành động, đó là cặp song hành quyết định.

“Mong muốn lớn nhất của cộng đồng doanh nghiệp là TP.HCM tạo được một không gian phát triển thật sự thuận lợi, sẵn sàng và thực tế. Muốn vậy, chính quyền phải tập trung vào năm việc: Giải ngân đầu tư công hiệu quả; phát triển hạ tầng kết nối vùng; hoàn thiện hạ tầng số; cải cách hành chính mạnh mẽ để khơi thông nguồn lực xã hội; và tạo cơ chế minh bạch giúp doanh nghiệp - đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa - dễ tiếp cận vốn”, ông nói.

b2.jpg
TP.HCM đang hướng tới trở thành trung tâm đồ gỗ và nội thất thế giới

Ông Huỳnh Thế Du cũng cho rằng: “Doanh nghiệp cần mạnh dạn đầu tư vào khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, vì những ngành truyền thống đang dần cạn dư địa tăng trưởng. Làm cái cũ thì phải ứng dụng cái mới, cắt giảm chi phí, nâng cao chất lượng, tìm khách hàng mới - đó chính là cách doanh nghiệp đóng góp cho tăng trưởng của TP.HCM và đất nước”.

Đề cao tính đa dạng, năng động và có khả năng thích ứng nhanh của doanh nghiệp nhưng bà Vân cũng nhìn nhận, điểm yếu lại nằm ở chỗ manh mún, thiếu liên kết và đầu tư chưa đủ cho R&D. Do đó, để bước vào giai đoạn tăng trưởng mới, doanh nghiệp phải thay đổi vai trò của mình - từ người phản ứng sang người dẫn dắt, từ tham gia bị động sang chủ động kiến tạo. Doanh nghiệp phải dám đặt câu hỏi: tôi có thể làm gì để góp phần vào mô hình tăng trưởng mới của thành phố? Khi tự trả lời được câu hỏi đó, sự phát triển sẽ không còn phụ thuộc vào chính sách.

Còn theo ông Phát, với doanh nghiệp: Một là, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo để tăng năng suất và khả năng cạnh tranh. Hai là, “tận dụng sức mạnh nội địa” thông qua kết nối doanh nghiệp trong nước với các tập đoàn FDI, hình thành chuỗi cung ứng trong nước mà tôi gọi là “xuất khẩu tại chỗ”, đó mới là nền tảng vững nhất.

TP.HCM mới sau sáp nhập với quy mô dân số gần 14 triệu người và hơn 6.700 km² - trở thành siêu đô thị đa trung tâm, tạo sức mạnh tổng hợp về kinh tế, công nghiệp, cảng biển và du lịch.

Anh Vĩnh - Hưng Khánh