Doanh nhân Việt Nam dõi tìm truyền thống
Là một người nghiên cứu sử học, tôi thường được nhiều người, đặc biệt là các doanh nhân hay đặt câu hỏi: “Truyền thống nào thế hệ doanh nhân ngày nay kế thừa của các bậc tiền bối?”.

Có người nhắc tới nhân vật của truyền thuyết như Mai An Tiêm gắn với sự tích quả dưa hấu, như một câu chuyện “khởi nghiệp” của chàng trai trẻ trong hoàn cảnh khắc nghiệt bị đầy ra đảo xa. Có người coi chàng Chử Đồng Tử trong truyền thuyết là biểu tượng sớm nhất cho một thân phận vượt lên từ nghèo khổ bằng việc buôn bán, mở chợ giao thương trên đường sông mà được người đời sau lập đền và mở hội (ở Đa Hòa, Dạ Trạch, tỉnh Hải Dương nay là Hải Phòng). Rồi cả danh tướng chống giặc Nguyên Mông Trần Khánh Dư có lúc thất thế phải đi “bán than” là những “thương nhân” danh giá tiền bối…
Nhưng những nhận thức có thể coi là chuẩn mực và có sự thống nhất cao trong giới nghiên cứu là về căn bản, xã hội truyền thống của nước ta (trước khi tiếp cận với phương Tây, đặc biệt là thời kỳ thuộc địa của Pháp) vẫn là một xã hội “dĩ nông vi bản” có thể chế kinh tế nhìn chung là “trọng nông ức thương”... Dù đã hình thành một số “làng nghề” hay phường hội của nó ở các đô thị vốn kém phát triển, thì nó vẫn có quy mô hoạt động rất nhỏ... Có thể nói, phần lớn các hoạt động thương mại và cả việc khai thác khoáng sản (thô) để xuất khẩu như than đá, thiếc... phần lớn do các thương nhân và nhân công người Trung Hoa sinh sống hoặc di cư đến nước ta quán xuyến...
Chỉ cho đến khi, trong trào lưu chung của toàn cầu, các đế quốc phương Tây phát triển cần tìm những vùng đất mới để mở mang thị trường, tìm kiếm tài nguyên và thiết lập thuộc địa thì nước ta mới có cơ hội tiếp cận đến những nhân tố mới góp phần tác động vào những nền tảng xã hội đã trở nên cũ kỹ, và phương thức kinh tế của chủ nghĩa tư bản mới thâm nhập nhưng bị biến tướng bởi những lợi ích của chủ nghĩa thực dân tàn bạo về chính trị và thực dụng trong khai thác.
Nếu như ở Nam Bộ việc người Pháp tăng cường khai thác tiềm năng vốn có của một vựa lúa từng xuất khẩu lúa gạo trong khu vực với quy mô lớn hơn và tạo ra những thay đổi về công nghệ cải tạo và khai khẩn đất đai, về chế biến lúa gạo (bằng cơ khí) thì chủ yếu chỉ thúc đẩy sự hình thành một tầng lớp điền chủ bản địa ngày càng tập trung ruộng đất và giàu có tham gia vào kinh doanh thị trường lúa gạo truyền thống. Còn trên địa bàn cả nước thì phải đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1918) với quy mô khá lớn tập trung vào xây dựng hạ tầng giao thông (bộ và thủy), lấy cốt lõi là hệ thống đường sắt, mở rộng sang cả thị trường Trung Quốc (tuyến Điền - Việt) cùng với khai thác khoáng sản (chủ yếu là than), thì một tầng lớp người Việt đầu tiên tham gia vào chuỗi các hoạt động kinh tế được hình thành như một phái sinh của nền kinh tế thuộc địa xuất hiện, ban đầu phần lớn là trong các lĩnh vực nhờ vào các lợi thế của người dân bản địa như khai thác gỗ và xây dựng cầu đường. Sau đó là trên lĩnh vực khai thác giao thông nội thủy. Điển hình là trường hợp được coi là thành đạt nhất như Bạch Thái Bưởi (1872-1932).

Đây là một trường hợp thành công điển hình nhất trên một lĩnh vực phải cạnh tranh khá khốc liệt với các đối thủ là các doanh nghiệp người Pháp và đặc biệt là người Hoa. Trong bối cảnh chung ấy, giống như Bạch Thái Bưởi, một số doanh nhân người Việt ở quy mô nhỏ hơn và trên nhiều lĩnh vực kinh tế cũng phát triển tạo ra một tầng lớp ngày càng đông tham gia vào đời sống kính tế thuộc địa. Họ lập các công ty, hội đoàn, tham gia vào môt số thiết chế kinh tế thuộc địa như Phòng Thương mai, Hội đồng Kinh tế Tài chính ở các Kỳ hoặc toàn Đông Dương, hay sau này là các Hội đồng dân biểu... nhưng ở những địa vị thấp và đòi hỏi phải gắn kết với lợi ích của thuộc địa...
Có một thực tế là phong trào yêu nước vốn tồn tại như một truyền thống dân tộc cũng tạo ra được một xu thế thúc đẩy sự phát triển của đội ngũ này như một lực lượng xã hội. Nó gắn với công cuộc Duy Tân mà một gương mặt tiêu biểu là Lương Văn Can, một chiến sĩ của phong trào Duy Tân đầu thế kỷ XIX, nhà sáng lập ra Đông Kinh Nghĩa Thục, từng bị chính quyền thực dân bắt tù đầy nhưng lại là người đưa ra những tư tưởng cổ vũ cho công cuộc kinh doanh và cổ vũ cho sự hình thành những tư tưởng mới mẻ giới cho giới doanh nân Việt Nam thời cận đại. Thông qua việc kinh doanh rất nhỏ bé nhưng đầy sức khích lệ và đặc biệt là thông qua những trước tác của mình (Kim cổ cách ngôn, Thương học châm ngôn) để vận động hướng tới một “Đạo làm giàu” phù hợp với hoàn cảnh và hệ sinh thái kinh tế, văn hóa và xã hội của những doanh nhân người Việt Nam thời “mất nước”. Cũng vì lẽ ấy mà thế hệ doanh nhân chúng ta ngày nay đã sớm tôn vinh Lương Văn Can là “người khởi xướng” cho “đạo làm giàu” như tấm một gương biểu dương tinh thần yêu nước và ý chí vươn lên của doanh nhân Việt Nam.
Cho tới Cách mạng Tháng Tám 1945 thì xã hội Việt Nam vẫn chưa có một tầng lớp hay đội ngũ doanh nhân thực sự có vị trí xã hội, có tiềm lực kinh tế để có vai trò, tiếng nói trong đời sống chính trị. Nhưng có một nhân tố hình thành từ rất sớm ngay trong cuộc vận động cách mạng theo xu thế cộng sản, đó là quan điểm của nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc - người sau này đã trở thành lãnh tụ của Đảng Cộng sản Việt Nam với một đường lối đi đến thành công cho công cuộc giải phóng dân tộc.
Năm 1924, khi đang trau dồi lý luận về cách mạng vô sản và chủ nghĩa cộng sản ở nước Nga Xô Viết, Nguyễn Ái Quốc đã phân tích và nhận định rằng sự phân hóa giai cấp trong xã hội Việt Nam chưa tạo ra mẫu thuẫn đấu tranh giai cấp và đưa ra quan điểm là chính “chủ nghĩa dân tộc vẫn là động lực quan trọng” của công cuộc giải phóng dân tộc...
Xuất phát từ đó và bám sát thực tiễn của cuộc vận động giải phóng dân tộc, trong bối cảnh đang diễn ra cuộc chiến tranh thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã xây dựng một cương lĩnh chính trị cho cuộc cách mang giải phóng dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ của thực dân, phát xít và cả chế độ phong kiến bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Và với tầm nhìn xa của mình, cái tầng lớp còn rất non trẻ, “còi cọc” trong chế độ thộc địa nửa phong kiến sẽ là một nguồn lực lâu dài và co vị thế ngày càng quan trọng của Đất nước trên cả hai phương diện mà sau này được khái quát thành hai mục tiêu chiến lược luôn song hành là “Kháng chiến và Kiến Quốc” (cũng bắt nguồn từ nguyên lý truyền thống “dựng nước và giữ nước”).

Do vậy khi tổ chức vận động và tập hợp lực lượng cách mạng, lần đầu tiên lực lượng xã hội mà trong học thuyết đấu tranh giai cấp định danh là “tư sản” đã được Nguyễn Ái Quốc gọi là “giới công thương” nay ta gọi là “doanh nhân”. Trong Mặt trận Việt Minh thành lập 5/1941, giới công thương trở thành một lực lượng dân tộc mà sau đó không lâu được tập hợp vào đội ngũ “cứu quốc”.
Khi Cách mạng tháng 8/1945 thành công tại Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu, lần đầu đến Hà Nội lại chọn ngôi nhà của một trong những người giàu nhất tại một đường phố cũng thuộc loại giàu nhất là ngôi nhà 48 Phố Hàng Ngang của gia đình vợ chống nhà tư sản Trịnh Văn Bô và Hoàng Thị Minh Hồ làm nơi ở cũng là “bản doanh” của bộ máy lãnh đạo và lại là nơi khai sinh ra chế đô dân chủ - cộng hòa, là nơi soạn thảo bản “Tuyên ngôn độc lập” lịch sử. Hiện tượng đó dường như đã đưa ra một thông điệp của vị lãnh tụ của cuộc Cách mạng Giải phóng Dân tộc cũng là nhà sáng lập và người lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản đánh giá về tầng lớp xã hội mà theo quan điểm giáo điều phải là “đối tượng phải bị đánh đổ “trong cách mạng vô sản. Tuy nhiên trong diễn đạt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không gọi họ là “tư sản” mà sử dụng những từ nói về nghề nghiệp cũng là vị thế trong một nền kinh tế đó là “tầng lớp công thương”.
Để tăng cường nguồn lực cho quốc gia, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động “Tuần lễ Vàng” và gửi lời kêu gọi đóng góp chính là tầng lớp “những người giàu có” trong đó các nhà công thương là một lực lượng đông đảo hơn cả.
Kết quả “Tuần lễ Vàng” rất có ý nghĩa không chỉ vì nó thiết thực giúp vào việc tăng cường tiềm lực quốc phóng, nhưng cũng phải nhận rằng nó không quá lớn (20 triệu đồng tiền Đông Dương và 370 kg vàng) phản ánh phần nào tiềm lực “giới công thương” nhưng cái ý nghĩa lớn lao phản ánh tầm nhìn của vị Chủ tịch Nhà nước Việt Nam độc lập còn rất non trẻ, chính là thấy được vị trí quan trọng và tiềm năng to lớn, lâu dài của tầng lớp này trong mục tiêu mà cốt lõi là xây dựng nền “Kinh tế quốc dân”. Đó cùng là mục tiêu mà sau đó không lâu, Chủ tịch Chính phủ Hồ Chí Minh đã viết thư gửi giới công thương vào ngày 13/10/1945 mà ngày nay chúng ta coi là cơ sở tư tưởng và cái mốc lịch sử cho “Ngày Doanh nhân Việt Nam” được Thủ tướng Phan Văn Khải ký quyết định ban hành các nay đã 21 năm (2004).
Trong bức thư ấy có thể nhấn mạnh đến mấy điểm cốt lõi sau:
Trong lúc “các giới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành lấy nền độc lập hoàn toàn thì trách nhiệm của giới công thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng”. “Chính phủ, nhân dân và Tôi (Chủ tịch Chính phủ) sẽ tận tâm giúp giới công thương trong công cuộc kiến thiết này”. “Việc nước và việc nhà bao giờ cũng đi đôi với nhau. Nền kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là các sự kinh doanh của các nhà công nghiệp, thương nghiệp thịnh vượng”. Kêu gọi “giới công thương mau mau gia nhập “Công thương cứu quốc đoàn” và “cùng đem vốn vào làm những công cuộc ích quốc lợi dân”.

Một bức thư ngắn những chứa đựng những nguyên lý có giá trị dẫn đạo lâu dài mà sau đó không lâu đã được thể hiện trong chỉ thị 25/11/1945 về hai mục tiêu chiến lược “Vừa kháng chiến vừa. Kiến quốc” trong đó “khuyên khích các nhà công thương mở các hợp tác xã và thương nghiệp, mở các hội cổ phần tham gia kiến thiết lại nước nhà”.
Đến những văn kiện cuối cùng trước khi Đất nước bước vào cuộc Kháng chiến trường kỳ (19/12/1946), có thể nói vị trí của giới công thương (được diễn giải là những người hoạt động kinh doanh trên hai lĩnh vực công nghiệp và thương nghiệp) đã được xác định và đặc biệt là vị Chủ tịch của một quốc gia độc lập đã đưa ra được khái niệm rất chân xác khi nói đến nền kinh tế quốc dân với một tầm nhìn hướng tới sự phát triển và hội nhập.
Tầm nhìn ấy được thể hiện trong hàng loạt những chính sách liên quan đến (như cách thể hiện ngày nay) là hệ sinh thái cho sự phát triển ấy với tầm nhìn có thể nói “thấu tới” thời đại chúng ta đang sống.
