Từ nghị quyết đến thực thi: Bảng điều khiển số mở ra kỷ nguyên quản trị hiện đại
Ngày 16/9/2025, tại Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện bốn nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị (Nghị quyết 59, 70, 71 và 72), lần đầu tiên bài phát biểu của một lãnh đạo cao nhất của Đảng đề cập đến khái niệm “bảng điều khiển số” được nhắc tới như một công cụ quản trị hiện đại…

Đến năm 2030, cũng là dấu mốc 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-2030), đặt ra nhiều mục tiêu chiến lược gồm: Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; Giữ vững ổn định chính trị - xã hội, độc lập, chủ quyền; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Hình thành nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu lực, hiệu quả. Mục tiêu đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước (1945-2045): Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Để các mục tiêu trên được hiện thực hóa, lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã có những chỉ đạo sâu sát. Tại Hội nghị toàn quốc quán triệt và triển khai thực hiện bốn nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị ngày 16/9, sau khi lắng nghe các chuyên đề Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: Mỗi cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm biến nội dung các Nghị quyết thành công việc hằng ngày, thành chương trình hành động cụ thể, có nguồn lực, có thời hạn, có chỉ số đo lường, có giám sát và giải trình.
Tổng Bí thư Tô Lâm cho rằng cần thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương đối với từng Nghị quyết hoặc Ban chỉ đạo Trung ương về việc triển khai các Nghị quyết của Bộ Chính trị. Bên cạnh đó, cần xây dựng “bảng điều khiển số” công khai, cập nhật theo tuần và theo tháng, theo dõi các chỉ số cốt lõi, các nút thắt, tiến độ thực hiện của từng Nghị quyết. Trách nhiệm của Chính phủ, Bộ, Ngành, Địa phương và của Nhân dân. Đồng thời, có thể mời các nhóm chuyên gia độc lập, bộ phận giám định chính sách tham gia thẩm định giải pháp, đánh giá, phản biện khách quan.
Chỉ đạo này của Tổng bí thư có ý nghĩa rất lớn: từ nay, việc triển khai nghị quyết không chỉ dựa trên báo cáo định kỳ mà cần được giám sát, theo dõi theo thời gian thực thông qua các chỉ số định lượng. Là một bước chuyển từ quản trị bằng cảm tính sang quản trị bằng dữ liệu, từ xử lý sự vụ sang điều hành chủ động. Có thể coi đây là tín hiệu mở đầu cho việc tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, nơi công nghệ và dữ liệu trở thành nền tảng để bảo đảm hiệu lực và hiệu quả thực thi nghị quyết.
Để nói, khái niệm “Bảng điều khiển số” (digital dashboard) là một giao diện trực quan, có thể hiển thị trên màn hình máy tính, điện thoại hoặc hệ thống hiển thị công cộng cho phép mọi người dân có thể theo dõi, giám sát và phân tích các thông tin quan trọng được cập nhật theo thời gian.
Thực ra thì bảng điều khiển số là sản phẩm công nghệ manh nha từ thập niên 1970-1980 khi các hệ thống quản trị dữ liệu ra đời. Nhưng mãi tới những năm 2000 đến nay, nó trở thành công cụ quản trị không thể thiếu trong doanh nghiệp hiện đại và chính phủ số. Đặc biệt là với sự tham gia của AI, nó giúp cho việc nâng cao tính minh bạch, mọi cấp quản lý đều thấy rõ tình trạng hoạt động của các dự án đang triển khai. Nhờ đó mà có thể rút ngắn chu kỳ ra quyết định: từ việc phải họp và tổng hợp báo cáo, chuyển sang xem trực tiếp từ dashboard.
Bảng điều khiển số cũng thúc đẩy quản trị dựa trên dữ liệu thay vì chỉ dựa vào kinh nghiệm. Nhờ việc hiển thị trực tiếp trên dashboard, sẽ giúp các nhà quản lý tăng khả năng dự báo, dùng AI, big data phân tích xu hướng một cách kịp thời, cập nhật nhanh chóng.
Dẫu mới chỉ mới được sử dụng trong phạm chi hẹp nhưng việc bảng điều khiển số quản trị dựa trên dữ liệu (Data-driven management) đã chứng tỏ sự ưu việt so với công cụ truyền thống, ấy là quản lý dựa vào báo cáo giấy, Excel, hoặc kinh nghiệm cá nhân. Bảng điều khiển số kết nối dữ liệu từ nhiều hệ thống giúp cho nhà đầu tư quyết định nhanh, chính xác, khách quan. Cùng với đó là minh bạch và trực quan hóa thông tin. Dữ liệu được hiển thị bằng biểu đồ, bản đồ, chỉ số KPI dễ hiểu, dễ giám sát, giảm tình trạng “giấu thông tin”.
Trong gần nửa thế kỷ qua, TP.HCM là địa phương có vai trò đặc biệt, luôn luôn là động lực cho cả vùng miền Đông Nam bộ và của cả nước. Sau khi sắp xếp lại địa giới hành chính, Tp.HCM có diện tích gần 7.000 km², dân số xấp xỉ 15 triệu người, trở thành một trong những siêu đô thị lớn nhất châu Á, tương đương vùng đô thị Bangkok, Thượng Hải, hay Seoul.
TP.HCM mới có sức mạnh tổng hợp vượt trội và đồng bộ: công nghiệp, logistics, cảng biển, cảng sâu, dịch vụ tài chính - quốc tế. Nhờ đó mà có thể tối ưu hóa kết nối hạ tầng, tận dụng lợi thế vùng - cảng biển Vũng Tàu trước kia, công nghiệp, nguồn lao động từ Bình Dương trước kia, trung tâm thương mại dịch vụ của TP.HCM. Được xem là “siêu đô thị” của cả nước, để có một hệ thống giao thông thông minh, Thành phố cần tập trung phát triển metro, BRT, tăng tỷ lệ vận tải công cộng lên mức 50% mới hy vọng giảm tải ách tắc.
Để phát huy sức mạnh liên kết vùng, Thành phố cần chủ động kết nối vùng bằng cao tốc, vành đai, đường sắt đô thị liên tỉnh. Cảng biển (Cái Mép - Thị Vải) và sân bay Long Thành phải kết nối hiệu quả với TP.HCM bằng cao tốc và tương lai phải có metro. Việc thay đổi cách quản trị cũ, thay vào đó là công cụ hiện đại bảng điều khiển số càng cấp thiết. Thành phố hiện nay phải đối diện với hàng loạt mục tiêu đồng thời. Trong bối cảnh đó, bảng điều khiển số với hệ thống chỉ số định lượng, cập nhật theo thời gian thực sẽ có ý nghĩa rất lớn.
Chỉ có bảng điều khiển số (digital dashboard) mới có thể làm tốt việc giám sát và điều hành giao thông, môi trường, năng lượng, an ninh. Cùng với đó là ứng dụng AI, Big Data, IoT trong quản lý đô thị. Thành phố cũng cần đặt mục tiêu cung cấp dịch vụ công trực tuyến 100% để giảm chi phí - thời gian cho người dân và doanh nghiệp.