Toàn cảnh

Thành phố thông minh với công cuộc chuyển đổi số (Bài 1)

Phan Thế Hải 16/09/2025 07:00

Mới đây, tại phiên họp lần thứ nhất của Tổ công tác liên ngành điều phối xây dựng, triển khai đồng bộ đô thị thông minh, Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng kết luận: “Phát triển đô thị thông minh đã trở thành xu thế tất yếu phát triển của các quốc gia trên thế giới. Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó. Phát triển đô thị thông minh là phương thức để phát triển kinh tế số, kinh tế đô thị, góp phần nâng cao chất lượng sống của người dân”.

KHÁT VỌNG THÀNH PHỐ THÔNG MINH

Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị đã đặt nhiệm vụ xây dựng “thành phố thông minh” như một trong những trụ cột chiến lược để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia. Để biến khát vọng thành hiện thực, TP.HCM cần đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi số, xây dựng nền tảng dữ liệu mở, phát triển hạ tầng công nghệ hiện đại gắn với quy hoạch đô thị bền vững, đồng thời đặt con người vào vị trí trung tâm.

Chuyên đề “Khát vọng thành phố thông minh” sẽ phân tích những yêu cầu, thách thức và gợi mở con đường để thành phố vươn tới tầm vóc một siêu đô thị thông minh của khu vực.

5j0a9426.jpg
Ảnh: Quỳnh Lâm

Đây là một phần trong định hướng phát triển hạ tầng công nghệ số tiên tiến (như IoT, AI, dữ liệu lớn, 5G…) nhằm phục vụ quản lý nhà nước, chính quyền điện tử và kinh tế - xã hội số. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước là coi phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là động lực đột phá hàng đầu để thúc đẩy lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới quản trị quốc gia và phát triển kinh tế - xã hội với những mục tiêu rất cụ thể: Đến năm 2030, kinh tế số đạt tối thiểu 30% GDP. Tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến sử dụng bởi người dân và doanh nghiệp trên 80%. Giao dịch không dùng tiền mặt đạt 80%. Doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo chiếm trên 40%.

Tầm nhìn đến năm 2045, kinh tế số tối thiểu 50% GDP. Việt Nam trở thành trung tâm công nghiệp công nghệ số trong khu vực và là một trong nhóm 30 quốc gia dẫn đầu về đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số. Về nội lực, VN phải có tối thiểu 10 doanh nghiệp công nghệ số ngang tầm quốc tế. Việt Nam cũng chủ trương thu hút ít nhất 5 tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới đầu tư, đặt trụ sở tại Việt Nam. Trên cơ sở đó sẽ tạo điều kiện cho nguồn nhân lực Việt Nam và các doanh nghiệp Việt có cơ hội tiếp cận với những công ty công nghệ hàng đầu thế giới.

Tuy nhiên, trong triển khai thực hiện vừa qua đã cho thấy còn có sự lúng túng, thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức, thiếu cơ chế chính sách, thiếu tiêu chuẩn, quy chuẩn và thiếu cơ chế điều phối trong triển khai xây dựng phát triển đô thị thông minh.

Nói về chủ đề “Thành phố thông minh”. Khoảng đầu thập niên 1990, cùng với sự phổ biến của internet và công nghệ thông tin - viễn thông (ICT), nhiều đô thị bắt đầu áp dụng “Digital City” hay “Intelligent City”. Điều này cũng dễ hiểu vì đô thị không chỉ là trung tâm kinh tế, trung tâm văn hóa khoa học công nghệ mà còn là nơi để triển khai, áp dụng hầu hết những thành tựu khoa học công nghệ vào thực tiễn. Các ý tưởng này tập trung vào tin học hóa dịch vụ công, xây dựng hạ tầng viễn thông, cổng thông tin điện tử cho chính quyền và người dân. Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và một số thành phố ở châu Âu đi tiên phong.

5j0a5498.jpg
Người dân sử dụng các phương tiện công cộng chỉ với... một chạm - Ảnh: Quỳnh Lâm

Nắm bắt xu hướng đó, ở Việt Nam, từ năm 2012, TP. Đà Nẵng dưới thời ông Nguyễn Bá Thanh làm Bí thư là thành phố đầu tiên định hướng xây dựng Smart City. Thành phố này cũng đã hợp tác với tập đoàn công nghệ IBM và sau này đơn vị thực hiện là tập đoàn Viettel để kiến tạo thành phố thông minh.

Năm 2015, Bình Dương (nay thuộc TP.HCM mới) chọn hợp tác với tập đoàn Brainport của Hà Lan thực hiện việc phát triển thành phố thông minh trong tương lai. Năm 2018, Bình Dương nằm trong danh sách 21 thành phố có chiến lược phát triển đô thị thông minh tiêu biểu thế giới (Smart21). Sau sự tiên phong của Đà Nẵng và Bình Dương, nhiều thành phố khác trong cả nước đã vào cuộc. Hiện tại, có hơn 30 tỉnh dự kiến triển khai kế hoạch Smart City và đã triển khai được khá nhiều dịch vụ thông minh cho người dân và cộng đồng doanh nghiệp.

Hiện nay, Smart City không chỉ dừng ở ứng dụng công nghệ mà mở rộng sang phát triển bền vững, kinh tế xanh, quản trị số, dữ liệu mở, và trí tuệ nhân tạo (AI). Xu hướng nhấn mạnh hơn vào con người làm trung tâm thay vì chỉ thuần công nghệ. Một Smart City không thể chỉ xây dựng bằng công nghệ, hạ tầng hay vốn đầu tư mà con người mới chính là trung tâm và động lực phát triển. Vai trò của con người thể hiện trên nhiều tầng bậc trong xã hội.

Trước hết là các nhà lãnh đạo và quản lý đô thị, họ là người định hướng và quy hoạch, vẽ ra tầm nhìn phát triển thành phố thông minh, tích hợp công nghệ với quy hoạch đô thị, môi trường, kinh tế - xã hội. Để rồi chính các nhà lãnh đạo là người ban hành chính sách, tạo hành lang pháp lý cho dữ liệu mở, dịch vụ số, an toàn thông tin, giao thông thông minh, năng lượng sạch... Các nhà lãnh đạo và quản lý cũng chính là người điều phối và giám sát, đảm bảo công nghệ phục vụ cộng đồng, không để Smart City trở thành “thành phố của máy móc” mà quên mất nhu cầu con người.

Thứ nữa là người dân, trung tâm của Smart City. Người dân cũng chính là đối tượng thụ hưởng, người sử dụng các tiện ích số như: dịch vụ công trực tuyến, giao thông thông minh, chăm sóc sức khỏe từ xa… Cũng chính từ việc sử dụng các tiện ích mà người dân có thể tham gia đồng kiến tạo, cung cấp dữ liệu qua app, cảm biến, phản ánh hiện trường để chính quyền tối ưu vận hành. Người dân cũng chính là đối tượng giám sát, tham gia phản biện chính sách, góp ý cho các giải pháp đô thị số. Người dân cũng chính là đối tượng phải thay đổi hành vi, từ thói quen truyền thống sang thói quen số chẳng hạn, thanh toán điện tử, di chuyển xanh, quản lý rác thải thông minh.

5j0a5586.jpg
Người dân cũng chính là đối tượng thụ hưởng, người sử dụng các tiện ích số - Ảnh: Quỳnh Lâm

Một nhân tố khác không thể không nhắc đến ấy là các doanh nghiệp và lực lượng công nghệ, họ là nhà phát triển giải pháp, cung cấp các ứng dụng AI, IoT, dữ liệu lớn, năng lượng tái tạo vào giao thông, y tế, giáo dục, môi trường. Họ cũng chính là đối tác cùng chính quyền đầu tư hạ tầng số, triển khai các nền tảng quản trị thông minh. Họ cũng là nơi cung cấp nguồn nhân lực sáng tạo, đội ngũ kỹ sư, nhà khoa học dữ liệu, chuyên gia đô thị học - chính là “kiến trúc sư” của Smart City.

Với một siêu đô thị như TP.HCM sẽ khó khăn và phức tạp hơn nhiều. Trước hết, phải làm cho mỗi người dân làm quen với văn hóa số, thói quen minh bạch, chia sẻ dữ liệu, tôn trọng quyền riêng tư. Giáo dục cộng đồng đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao kỹ năng số cho mọi tầng lớp, từ người cao tuổi, trẻ em, lao động phổ thông để không ai bị bỏ lại phía sau. Mỗi công dân cũng cần phải ý thức sâu sắc trách nhiệm của mình trong thời đại số ấy là sự hợp tác, tuân thủ luật lệ, góp phần xây dựng đô thị xanh - an toàn - nhân văn. Khi có sự đồng sức, đồng lòng từ lãnh đạo đảng đến mỗi người dân thì mọi việc dẫu khó khăn đến đâu đều có thể làm được. Công cuộc xây dựng Thành phố thông minh và chuyển đổi số cũng không là ngoại lệ.

Đầu những năm 2000, các tập đoàn công nghệ lớn (IBM, Cisco, Siemens…) bắt đầu quảng bá khái niệm Smart City, nhấn mạnh việc sử dụng cảm biến, hệ thống quản lý dữ liệu và Internet of Things (IoT).
Năm 2008, IBM đưa ra sáng kiến Smarter Planet, thúc đẩy mạnh mẽ ý tưởng thành phố thông minh với hạ tầng “nhạy cảm - liên kết - thông minh”.
Từ 2010 trở đi, khái niệm “Smart City” được các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, EU, Ngân hàng Thế giới và nhiều chính phủ đưa vào chiến lược phát triển đô thị.
EU đã phát động nhiều chương trình như European Innovation Partnership on Smart Cities and Communities (2012). Ở châu Á, Singapore khởi động chương trình Smart Nation (2014).

Phan Thế Hải