Toàn cảnh

Tín chỉ carbon phải được xem là một loại tài sản

Lê Hạnh 12/09/2025 11:45

“Để thị trường tín chỉ carbon vận hành hiệu quả, Việt Nam cần sớm công nhận tín chỉ carbon là một loại tài sản nhằm mở khóa nguồn vốn từ các định chế tài chính, ngân hàng, góp phần tạo đột phá cho phát triển xanh”, ông Nguyễn Võ Trường An - Phó tổng giám đốc Công ty CP Sàn giao dịch tín chỉ Carbon ASEAN (CCTPA) chia sẻ với Tạp chí Doanh Nhân Sài Gòn.

* Theo ông, nhận thức của doanh nghiệp Việt Nam về vai trò của tín chỉ carbon hiện nay chuyển biến như thế nào?

- Khoảng 2 năm gần đây, nhiều doanh nghiệp (DN), từ lớn đến vừa và nhỏ đang tìm hướng đi mới phù hợp với dòng chảy kinh tế thế giới. Cụ thể, cơ chế thuế carbon xuyên biên giới (C-BAM của EU, thuế carbon của Mỹ, Úc…) buộc DN Việt phải chủ động chuyển đổi xanh. Việt Nam cũng đã có những khung pháp lý cơ bản, tạo nền tảng quan trọng để doanh nghiệp tham gia thị trường.

8748925c63d2e88cb1c3.jpg
Ông Nguyễn Võ Trường An

* Vừa qua, Chính phủ và TP.HCM chỉ đạo thúc đẩy việc hình thành thị trường tín chỉ carbon và đã có tác động thế nào đến thị trường?

- Bên cạnh chỉ đạo đẩy nhanh việc hình thành thị trường carbon bắt buộc. Quốc hội cũng thông qua Nghị quyết về Trung tâm tài chính quốc tế TP.HCM, trong đó có cơ chế để tổ chức sàn giao dịch tín chỉ carbon tự nguyện. Hiện, tổ công tác đang soạn thảo các khung pháp lý cho sàn tín chỉ carbon trong Trung tâm tài chính quốc tế để cuối năm nay hoặc đầu năm sau sẽ có một sàn tự nguyện trong trung tâm tài chính quốc tế TP.HCM, Đà Nẵng. Có thể đến năm 2026 nhu cầu về tín chỉ carbon sẽ “bùng nổ”, cùng với đó là dòng vốn xanh quốc tế sẽ có điều kiện và cơ chế để đổ về Việt Nam đầu tư cho các dự án.

* Theo ông, cần những cơ chế chính sách nào để khuyến khích doanh nghiệp, đặc biệt là DN nhỏ và vừa chủ động tham gia thị trường tín chỉ carbon?

- Theo tôi, điều quan trọng nhất là phải có khung pháp lý chi tiết, chính xác cho từng loại dự án và minh bạch cơ chế đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) sẽ như thế nào. Ví dụ, muốn thu hút được vốn đầu tư xanh từ cộng đồng DN trong nước, và cả những dòng vốn quốc tế thì phải làm rõ cơ chế chính sách và minh bạch việc bao nhiêu phần trăm tín chỉ carbon ở từng loại hình dự án, lĩnh vực nhất định sẽ được bán ra quốc tế và bao nhiêu phần trăm phải được giữ lại cho NDC quốc gia.

Thứ hai, cần công nhận tín chỉ carbon là một loại tài sản. Có như vậy, chúng ta mới “mở khóa” được dòng vốn từ các định chế tài chính như ngân hàng, tổ chức tín dụng, thay vì chỉ trông chờ vào nguồn vốn từ các DN mong muốn đầu tư và các quỹ quốc tế vốn chỉ chiếm khoảng 30-40%. Nếu “mở khóa” được việc công nhận tín chỉ carbon là một tài sản được hình thành từ dự án thì chúng ta có thể huy động được nguồn lực rất lớn.

Thứ ba, việc liên kết giữa sàn giao dịch tín chỉ carbon bắt buộc và sàn tự nguyện với các sàn quốc tế cũng rất cần thiết để tạo cơ chế xuyên suốt, nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút dòng vốn lớn đầu tư cho các dự án xanh và cạnh tranh với các nước để thu hút nhiều dòng vốn xanh cho đất nước.

Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (World Bank) cho thấy quy mô thị trường tín chỉ carbon của TP.HCM tương đối lớn, có giá trị lên đến khoảng 790 triệu USD.

Để tham gia _cuộc chơi_, các DN cần chuẩn bị ngay từ hôm nay, từ nhận thức đến chiến lược và nhân lực
Để tham gia "cuộc chơi", các DN cần chuẩn bị ngay từ hôm nay, từ nhận thức đến chiến lược và nhân lực

* Theo ông, TP.HCM sau khi sáp nhập địa giới hành chính có lợi thế và thách thức như thế nào trong việc hình thành và phát triển thị trường carbon?

- Lợi thế trước đây của TP.HCM chỉ có một mảng xanh duy nhất ở Cần Giờ, với việc sáp nhập cùng Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu thì TP.HCM đã mở rộng được mảng xanh. Tiềm năng về lâm nghiệp, nông nghiệp và tài nguyên xanh kể cả carbon từ biển là lợi thế rất lớn để phát triển một số dự án có quy mô lớn.

Tuy nhiên, Bình Dương và Bà Rịa - Vũng Tàu cũ vốn là những địa phương có logistic, giao thông vận tải cũng như công nghiệp phát triển rất lớn, cộng với TP.HCM là đầu tàu công nghiệp cả nước khiến Thành phố phải đối mặt áp lực lớn về dân số, giao thông vận tải, tiêu thụ năng lượng và phát triển công nghiệp. Chúng ta phải cần nhiều nguồn lực hơn để giảm phát thải và hướng đến mục tiêu trung hòa carbon.

Nhưng chính thách thức này vô hình trung sẽ tạo thành động lực để thu hút vốn đầu tư vào công nghệ xanh, công nghệ giảm phát thải cũng như sản xuất bền vững. Vấn đề quan trọng là các nhà, gồm nhà nước, DN và các nhà khoa học phải phối hợp với nhau để có một lộ trình phù hợp và khoa học từng bước để có những dự án nhỏ trong một đề án lớn cho TP.HCM. Trong đó, cần dựa trên nền tảng công nghệ và dữ liệu phát thải cụ thể của TP.HCM (đang phát thải bao nhiêu trong tất cả các lĩnh vực, phát thải nhiều nhất ở quy trình nào, lĩnh vực nào để có tác động phù hợp qua từng giai đoạn và áp dụng công nghệ cũng như nguồn lực phù hợp) để hiện thực hóa mục tiêu net zero.

* Ông có thông điệp gì muốn gửi đến cộng đồng DN trong bối cảnh “cuộc chơi carbon” trở thành yếu tố sống còn để phát triển bền vững?

- Với quy định của các nước trên thế giới về phát thải carbon thấp, các thuế carbon xuyên biên giới thì việc giảm phát thải trong quá trình sản xuất là một “cuộc chơi carbon” bắt buộc. Do đó, các DN cần chuẩn bị ngay từ hôm nay, từ nhận thức đến chiến lược và nhân lực. Đừng e ngại quy mô, vì với sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, các định chế tài chính và sự đồng hành của chúng tôi, mọi thành phần - từ nông hộ, hợp tác xã, DN nhỏ và vừa đến tập đoàn lớn đều có thể tham gia vào chuỗi cung ứng, một thị trường để DN Việt có động lực chuyển đổi và phát triển xanh trong tương lai.

* Cảm ơn ông!

Lê Hạnh