Toàn cảnh

Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại TP.HCM: Cần cơ chế tài khóa vùng (Bài 1)

Hạo Hiển 12/08/2025 06:00

TTTC phải hội tụ các điều kiện từ cơ sở hạ tầng, thể chế, thị trường, nhân lực, công nghệ đến khả năng quản trị tích hợp. Nếu TP.HCM không có quyền điều phối vùng, không thiết kế được các chính sách mang tính khu vực, thì TTTC khó mà thành công.

XÂY DỰNG TRUNG TÂM TÀI CHÍNH QUỐC TẾ TẠI TP.HCM: CHIẾN LƯỢC HÀNH ĐỘNG VÀ THỰC THI
Việc xây dựng và phát triển Trung tâm tài chính (TTTC) quốc tế tại Việt Nam là xu thế của thế giới và cũng là tầm nhìn của đất nước. “Đã nói là làm, đã làm phải thành công, kết quả phải cân đo, đong đếm được" - chỉ đạo dứt khoát của Thủ tướng Phạm Minh Chính với mốc 1/9/2025 phải vận hành bộ máy đang tạo sức bật để TP.HCM tập trung triển khai các thể chế, chính sách, bố trí, huy động nguồn lực để xây dựng kết cấu hạ tầng, không gian vận hành, tạo dựng niềm tin, vị thế của Việt Nam trên bản đồ vị thế toàn cầu.

Bài 1TP.HCM sẽ đầu tư khoảng 172.000 tỷ đồng xây trung tâm tài chính quốc tế tại khu vực Thủ Thiêm
TP.HCM sẽ đầu tư khoảng 172.000 tỷ đồng xây trung tâm tài chính quốc tế tại khu vực Thủ Thiêm

Đây là ý kiến của TS. Võ Trí Thành - nguyên Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh khi bàn về cơ chế cho phát triển TTTC quốc tế tại TP.HCM.

Theo TS. Võ Trí Thành, lợi thế lớn nhất của TP.HCM sau hợp nhất là sự bổ trợ lẫn nhau giữa các cực phát triển: TP.HCM là trung tâm tài chính - dịch vụ, Bình Dương là trung tâm công nghiệp chế biến chế tạo, còn Bà Rịa - Vũng Tàu có thế mạnh cảng biển, logistic và năng lượng. Tổ hợp này đủ sức tạo nên một cực tăng trưởng kinh tế tầm cỡ khu vực nếu được quản trị tốt.

Trong khi các TTTC quốc tế như Thượng Hải, Singapore, Hong Kong đều phát triển trên nền các vùng đô thị tích hợp mạnh về công nghiệp, dịch vụ và logistics, thì TP.HCM cũng đang tiến gần mô hình tương tự. Chỉ khác là Việt Nam cần gia cố cơ chế quản trị vùng tương thích với trình độ phát triển đang gia tăng nhanh chóng.

Đây là lúc để Việt Nam thử nghiệm các sản phẩm tài chính phi truyền thống trong môi trường có kiểm soát. “Tài chính xanh, tài chính số, đầu tư mạo hiểm - tất cả đều cần một “sân chơi riêng” đủ linh hoạt, không thể gò bó theo các quy định cũ kỹ”.

TS. Võ Trí Thành

Theo đó, trọng tâm hiện nay không nằm ở việc mở rộng địa lý, mà ở việc xây dựng một hệ thống quản trị vùng hiệu quả - nơi TP.HCM không chỉ là đơn vị hành chính, mà là đầu mối thiết kế chính sách và điều phối tài nguyên cho toàn bộ vùng đô thị tích hợp. Việc phát triển TTTC quốc tế không thể chỉ dựa trên hạ tầng tài chính ngân hàng hiện hữu, mà cần được đặt trong một hệ sinh thái kinh tế đô thị quy mô vùng, nơi có sự liên thông về vốn, nhân lực, công nghệ và dịch vụ hỗ trợ - từ khu vực cảng biển và năng lượng của Bà Rịa - Vũng Tàu đến các khu công nghiệp công nghệ cao tại Bình Dương.

Theo TS. Võ Trí Thành, một TTTC không thể tách rời vùng kinh tế - đô thị xung quanh. Đặc điểm của TTTC là phải hội tụ các điều kiện từ cơ sở hạ tầng, thể chế, thị trường, nhân lực, công nghệ, đến khả năng quản trị tích hợp. Nếu TP.HCM không có quyền điều phối vùng, không thiết kế được các chính sách mang tính khu vực, thì TTTC khó mà thành công.

Trang bìa

Thực tế cho thấy hiện vẫn còn khoảng cách giữa chính sách trung ương và yêu cầu điều hành linh hoạt tại địa phương. Theo chuyên gia, việc hình thành một thiết chế quản lý vùng có tính pháp lý - hành chính đủ mạnh, như một hội đồng vùng hoặc cơ quan điều phối có thực quyền, là điều kiện tiên quyết. Chỉ khi đó, các dự án đầu tư lớn, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, bất động sản cao cấp, công nghệ tài chính (fintech) mới có thể an tâm triển khai ở quy mô liên vùng.

Trên nền không gian vùng đã được hợp nhất, TP.HCM cần được trao cơ chế tài khóa vùng - một khái niệm mới, nhưng đã được áp dụng thành công tại Bắc Kinh, Tokyo hay Paris. Đó là cơ chế cho phép chính quyền vùng được quyền chủ động thiết kế thu - chi ngân sách theo đặc thù phát triển, phát hành trái phiếu vùng, áp dụng chính sách ưu đãi đầu tư riêng và phân bổ vốn cho các dự án hạ tầng liên kết như đường sắt đô thị xuyên vùng, trung tâm giao dịch tài chính, khu dữ liệu số và logistics cao cấp. Đây là nền tảng để đảm bảo tính đồng bộ trong đầu tư và phát triển, tránh tình trạng phân mảnh, manh mún giữa các cực tăng trưởng trong vùng.

Về chính sách tiền tệ, vùng đô thị mở rộng TP.HCM cũng cần được ưu tiên thử nghiệm sandbox tài chính, đặc biệt trong lĩnh vực fintech và tài chính phi truyền thống. Những thử nghiệm về ngân hàng số, tài sản số, token hóa, dịch vụ tài chính xuyên biên giới hoàn toàn có thể triển khai tại các hạ tầng đã sẵn sàng như tại đô thị lỏi TP.HCM, các khu công nghiệp của Bình Dương hay cụm năng lượng công nghệ cao tại Bà Rịa - Vũng Tàu. Đó là điều kiện cần để hình thành một “vùng thí điểm” tài chính số có kiểm soát - nơi dòng vốn mới được phát triển trong môi trường linh hoạt và cạnh tranh toàn cầu.

Ý tưởng phát triển vùng đô thị đặc biệt đã từng được đặt ra trong nhiều đề án chiến lược quốc gia, nhưng chỉ khi gắn với mục tiêu cụ thể như trung tâm tài chính quốc tế, nó mới cho thấy tính cấp bách và sức bật thực sự. Các chuyên gia đồng thuận rằng, nếu chỉ dựa vào nguồn lực nội tại TP.HCM, đề án này sẽ khó tạo ra sự đột phá. Chỉ khi vùng hóa, nghĩa là quản trị một cách tích hợp và liên thông ba cực kinh tế - tài chính - logistics, trung tâm tài chính quốc tế tại TP.HCM mới có thể định hình bản sắc riêng và cạnh tranh với những “ngôi sao đang lên” trong khu vực như Jakarta, Bangkok hay Kuala Lumpur.

Quy mô kinh tế sau hợp nhất của thành phố mới đạt hơn 2,7 triệu tỷ đồng - chiếm gần 1/4 GDP năm 2024 của cả nước. Thu ngân sách của thành phố mới cũng vượt trội khi chiếm gần 1/3 cả nước với 682 nghìn tỷ đồng.

Hạo Hiển