Toàn cảnh

Xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 7 tháng tăng mạnh 14,7%

Ngọc Nga 04/08/2025 - 15:51

Xuất khẩu nhiều mặt hàng chủ lực giữ đà tăng trưởng tốt, giúp ngành nông nghiệp tiếp tục duy trì cán cân thương mại dương, đạt thặng dư 11,52 tỷ USD sau 7 tháng năm 2025.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, trong tháng 7/2025, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam ước đạt 6,01 tỷ USD, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính chung 7 tháng, tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt 39,68 tỷ USD, tăng 14,7%, trong đó giá trị xuất siêu đạt 11,52 tỷ USD, tăng 15,9%.

Trong cơ cấu hàng hóa, nhóm nông sản dẫn đầu với kim ngạch xuất khẩu ước đạt 21,49 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ. Lâm sản đạt 10,38 tỷ USD (tăng 8,6%), thủy sản 6,06 tỷ USD (tăng 13,8%) và sản phẩm chăn nuôi 339,2 triệu USD (tăng 22,1%).

ca-phe.jpeg
Xuất khẩu cà phê sau 7 tháng đạt 1,1 triệu tấn, tương đương 6 tỷ USD, tăng 7,6% về lượng và 65,1% về giá trị. Ảnh: TTXVN

Xét theo thị trường, châu Á tiếp tục là khu vực tiêu thụ lớn nhất, chiếm 42,6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Châu Mỹ và châu Âu lần lượt chiếm 23,3% và 15,1%. Đáng chú ý, xuất khẩu sang châu Âu tăng mạnh 43,1%. Dù thị phần còn khiêm tốn, song châu Phi và châu Đại Dương ghi nhận tốc độ tăng trưởng ấn tượng, lần lượt đạt 88,9% và 4,4%.

Ba thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam tiếp tục là Hoa Kỳ (chiếm 21% thị phần), Trung Quốc (18,4%) và Nhật Bản (7,2%). Xuất khẩu sang Nhật Bản tăng tới 23,6%, Hoa Kỳ tăng 12,1% và Trung Quốc tăng nhẹ 3,6%.

Về các mặt hàng cụ thể, cà phê tiếp tục là điểm sáng khi xuất khẩu đạt 1,1 triệu tấn, tương đương 6 tỷ USD, tăng 7,6% về lượng và 65,1% về giá trị. Giá xuất khẩu bình quân đạt 5.672 USD/tấn, tăng hơn 53%. Đức, Italy và Tây Ban Nha là các thị trường tiêu thụ chính, trong khi giá trị xuất khẩu sang Mexico tăng đột biến, gấp 88 lần.

Cao su xuất khẩu đạt 893.800 tấn, đạt 1,61 tỷ USD. Dù lượng giảm nhẹ, nhưng nhờ giá xuất khẩu bình quân tăng 16,3%, tổng giá trị vẫn tăng 13,9%. Trung Quốc là thị trường tiêu thụ chủ yếu, chiếm tới 69,3%.

Hạt điều xuất khẩu đạt hơn 409.000 tấn, kim ngạch đạt 2,79 tỷ USD. Dù lượng giảm 3,3%, nhưng nhờ giá tăng, giá trị xuất khẩu tăng 17,4%. Trung Quốc, Hoa Kỳ và Hà Lan tiếp tục là những thị trường chính.

Tương tự, hạt tiêu đạt hơn 145.000 tấn, gần 1 tỷ USD, giảm 11,6% về lượng nhưng tăng gần 30% về giá trị nhờ giá bình quân tăng 47%. Đặc biệt, xuất khẩu sang Anh tăng gấp đôi, trong khi giảm tại UAE.

Xuất khẩu gạo đạt 5,5 triệu tấn, tăng 3,1% về lượng nhưng chỉ đạt 2,81 tỷ USD, giảm 15,9% về giá trị do giá giảm mạnh 18,4%. Philippines chiếm 42,6% thị phần, trong khi thị trường Bờ Biển Ngà tăng gần gấp đôi, còn Malaysia giảm đáng kể.

Rau quả đạt kim ngạch 3,92 tỷ USD, tăng nhẹ 0,9%. Trung Quốc chiếm hơn 52% thị phần nhưng giá trị xuất khẩu giảm 24,3%, trong khi xuất khẩu sang Hoa Kỳ tăng tới 65,5%.

Tính theo nhóm hàng, nông, lâm, thủy sản đều duy trì trạng thái thặng dư thương mại. Cụ thể, lâm sản đạt thặng dư 8,39 tỷ USD (tăng 4,9%), thủy sản 4,18 tỷ USD (tăng 7,5%) và nông sản 4,28 tỷ USD (tăng mạnh 33,4%).

Trong 7 tháng, có 6 mặt hàng có thặng dư thương mại trên 1 tỷ USD. Gỗ và sản phẩm gỗ dẫn đầu với 7,7 tỷ USD (tăng 4,1%), tiếp đến là cà phê với 5,78 tỷ USD (tăng 66%), rau quả 2,47 tỷ USD (giảm 7,1%), tôm 2,08 tỷ USD (tăng 16,3%), gạo 1,81 tỷ USD (giảm 30%) và cá tra 1,11 tỷ USD (tăng 8,3%).

Tuy vậy, một số mặt hàng vẫn đang chịu thâm hụt thương mại lớn như: thức ăn gia súc và nguyên liệu (1,89 tỷ USD, giảm 17,2%), bông các loại (1,88 tỷ USD, tăng 10,1%), chế phẩm từ trồng trọt (1,72 tỷ USD, giảm 6,3%), ngô (1,29 tỷ USD, giảm 5,4%) và thịt, phụ phẩm dạng thịt (917,7 triệu USD, tăng 10,4%).

Kết quả tích cực trên phản ánh hiệu quả chuyển dịch cơ cấu thị trường, mặt hàng và cải thiện giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên, cơ quan chức năng nhấn mạnh cần tiếp tục thúc đẩy đa dạng hóa thị trường, đẩy mạnh chế biến sâu và nâng cao năng lực cạnh tranh để duy trì đà tăng trưởng bền vững trong thời gian tới.

Ngọc Nga