Giải ngân vốn đầu tư công 6 tháng đầu năm 2025 tăng mạnh, đạt hơn 268.000 tỷ đồng
Theo số liệu vừa được Bộ Tài chính công bố, tổng vốn đầu tư công giải ngân đến hết tháng 6 năm 2025 ước đạt 268.133,9 tỷ đồng. So với mức 184.542,3 tỷ đồng của tháng 5, con số này thể hiện mức tăng trưởng đáng kể và tăng tới 42,3% so với cùng kỳ năm 2024.
Đây là tín hiệu tích cực cho thấy nỗ lực thúc đẩy tiến độ thực hiện các dự án đầu tư công đang phát huy hiệu quả rõ rệt. Tỷ lệ giải ngân đạt 29,6% so với kế hoạch năm và tương đương 32,5% kế hoạch vốn được Thủ tướng Chính phủ giao. Trong khi đó, tỷ lệ giải ngân tại cùng thời điểm năm 2024 chỉ đạt lần lượt 26,4% và 28,2%.
Về cơ cấu nguồn vốn, vốn đầu tư từ ngân sách địa phương đạt tỷ lệ giải ngân 37,8% so với kế hoạch được Thủ tướng giao, cao hơn nhiều so với mức 27,4% của cùng kỳ năm trước. Ngược lại, vốn từ ngân sách trung ương mới đạt 25,3%, giảm so với mức 29,5% của năm 2024.
Đối với các Chương trình mục tiêu quốc gia, tổng số vốn giải ngân trong 6 tháng đầu năm nay đạt 9.258 tỷ đồng, tương đương 42,2% kế hoạch vốn đã được giao. Tổng kế hoạch vốn đầu tư công năm 2025, bao gồm cả phần vốn chuyển nguồn từ các năm trước, là 966.784,2 tỷ đồng.

Tính đến cuối tháng 6 năm 2025, đã có 10 bộ, cơ quan trung ương và 37 địa phương có tỷ lệ giải ngân từ mức bình quân chung của cả nước trở lên. Trong khi đó, vẫn còn 32 bộ, cơ quan trung ương và 26 địa phương có tỷ lệ giải ngân thấp hơn mức bình quân chung, cho thấy sự chênh lệch đáng kể trong hiệu quả triển khai kế hoạch đầu tư công giữa các đơn vị.
Trong nhóm các đơn vị có tỷ lệ giải ngân vượt trội, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam dẫn đầu với 86,4%, tiếp theo là Đài Tiếng nói Việt Nam đạt 73,8%, Bộ Công an đạt 45,2%, và Ngân hàng Chính sách xã hội với 41,2%.
Ở cấp địa phương, nhiều tỉnh có kết quả giải ngân ấn tượng như Phú Thọ đạt 85,7%, Hà Tĩnh 75,6%, Lào Cai 66,6%, Thái Nguyên 65,4%, Bắc Ninh 62,3%, Hà Nam và Ninh Bình cùng đạt 59,5%, Bà Rịa - Vũng Tàu 54,9% và Nam Định 53,9%.
Đối với các đơn vị đề nghị điều chỉnh giảm kế hoạch vốn, Bộ Tài chính đã tiến hành tổng hợp lại và điều chỉnh tỷ lệ giải ngân trên cơ sở kế hoạch vốn đã được cập nhật. Việc rà soát này nhằm đảm bảo việc đánh giá tiến độ và hiệu quả giải ngân bám sát nhu cầu thực tế, tránh tình trạng vốn bị dàn trải hoặc không được sử dụng hiệu quả.
Bên cạnh những kết quả tích cực, Bộ Tài chính cũng thẳng thắn chỉ ra sáu nguyên nhân chính gây khó khăn cho công tác giải ngân vốn đầu tư công trong nửa đầu năm 2025.
Trước hết, công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng tiếp tục là điểm nghẽn lớn, đặc biệt là trong việc xác định giá đất đền bù. Việc xác định nguồn gốc đất sử dụng gặp nhiều trở ngại do lịch sử chuyển nhượng phức tạp, kéo dài thời gian xử lý. Bên cạnh đó, việc sáp nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh cũng gây khó khăn trong việc xây dựng bảng giá đất mới.
Nguyên nhân thứ hai đến từ biến động giá nguyên vật liệu xây dựng. Sự thiếu hụt nguồn cung và giá cả tăng bất thường so với thời điểm mời thầu khiến tổng chi phí các dự án tăng cao, làm gián đoạn hoặc chậm tiến độ thi công.
Thứ ba là những phức tạp phát sinh trong quá trình sắp xếp, tổ chức lại bộ máy hành chính và mô hình chính quyền địa phương theo hướng hai cấp. Điều này dẫn tới việc một số dự án phải điều chỉnh lại quy mô, mục tiêu và phương thức thực hiện, kéo theo việc phải thực hiện lại thủ tục thẩm định và phê duyệt đầu tư.
Ngoài ra, việc giải ngân đối với các dự án ODA tiếp tục gặp vướng mắc do nhiều dự án chưa hoàn tất thủ tục đầu tư, hoặc đang trong giai đoạn xử lý các thủ tục đấu thầu và giải phóng mặt bằng.
Đây là nguyên nhân thứ tư đang tác động tiêu cực đến tiến độ chung. Thứ năm, tình hình thu ngân sách địa phương từ nguồn sử dụng đất chưa đạt kỳ vọng theo dự toán, ảnh hưởng đến khả năng bố trí và giải ngân vốn đầu tư ở cấp địa phương.
Cuối cùng, các Chương trình mục tiêu quốc gia vẫn tồn tại một số hạn chế trong quá trình triển khai. Định mức hỗ trợ cho một số hoạt động như hỗ trợ tiền ăn cho người học nghề hay phát triển sản xuất còn thấp, chưa đủ sức khuyến khích các đối tượng tham gia, làm giảm hiệu quả và tiến độ thực hiện chương trình.