Thời sự

Phát triển kinh tế tư nhân: Nhìn từ kinh nghiệm Trung Quốc

TS. Cấn Văn Lực (*) 27/03/2025 12:00

Kinh tế tư nhân (KTTN) từ lâu đã được xác định là động lực quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, sau hơn hai thập niên, đóng góp của khu vực này vào GDP vẫn chỉ duy trì ở mức xấp xỉ 50%, và tốc độ chuyển mình còn khá khiêm tốn. Trong bối cảnh đó, kinh nghiệm từ Trung Quốc - nền kinh tế lớn thứ hai thế giới - là một ví dụ đáng tham khảo, cho thấy cách thức định hướng, hỗ trợ và khai mở tiềm lực khu vực tư nhân một cách đồng bộ, hiệu quả.

Những điểm nghẽn phát triển KTTN ở Việt Nam

Dù được ưu tiên phát triển theo Nghị quyết 10/NQ-TW (2017) và mới đây là Nghị quyết 45/NQ-CP (2023), khu vực KTTN Việt Nam vẫn chưa đạt kỳ vọng. Phần lớn doanh nghiệp (DN) tư nhân vẫn còn quy mô nhỏ, năng lực tài chính yếu, công nghệ lạc hậu, và thiếu khả năng tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Một điểm nghẽn lớn là xu hướng “ngại lớn” - nhiều DN và hộ kinh doanh không muốn hoặc không thể mở rộng quy mô do vướng rào cản về chính sách, nguồn lực và pháp lý. Môi trường kinh doanh tuy đã cải thiện nhưng vẫn tồn tại nhiều thủ tục rườm rà, chi phí tuân thủ cao, trong khi khả năng tiếp cận tín dụng, đất đai và các chính sách hỗ trợ còn hạn chế.

Chuyển đổi số và chuyển đổi xanh - hai đòi hỏi tất yếu trong nền kinh tế hiện đại - vẫn còn là khái niệm xa vời với phần đông DN tư nhân, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Trong khi đó, năng lực quản trị và tư duy chiến lược còn yếu, khiến nhiều DN dễ bị tổn thương trước biến động thị trường.

gap-go.jpg

Những nguyên nhân cản trở từ nhiều phía

Sự ì ạch của khu vực KTTN không chỉ đến từ nội tại DN mà còn bắt nguồn từ các yếu tố vĩ mô, chính sách và nhận thức xã hội.

Về khách quan, bối cảnh kinh tế toàn cầu đầy bất ổn - từ đại dịch, xung đột địa chính trị đến căng thẳng thương mại, bảo hộ công nghệ - đã tác động mạnh đến chuỗi cung ứng, thị trường xuất khẩu và sức cầu nội địa. SMEs (doanh nghiệp nhỏ và vừa) là nhóm dễ bị tổn thương nhất.

Về chủ quan, nhiều cơ quan quản lý vẫn chưa thực sự thay đổi tư duy từ “quản lý” sang “phục vụ”. Chính sách hỗ trợ DN tư nhân còn manh mún, thiếu tính thực thi, hoặc chưa sát với nhu cầu thực tiễn. Nhiều hộ kinh doanh vẫn e ngại chuyển đổi thành DN chính thức vì thủ tục phức tạp, gánh nặng kế toán - thuế - lao động, và thiếu cơ chế khuyến khích đủ mạnh.

Ngoài ra, khả năng liên kết trong nội bộ khu vực tư nhân còn yếu. DN lớn chưa hỗ trợ được DN nhỏ, trong khi mối quan hệ DN - viện nghiên cứu - trường đại học còn lỏng lẻo. Việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất - yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh - vẫn là điểm yếu phổ biến.

Trung Quốc: Từ “kiểm soát” đến “kiến tạo có kiểm soát”

Trung Quốc là ví dụ điển hình về việc chuyển hướng chính sách để giải phóng sức mạnh khu vực KTTN. Từ những năm 1980, nước này từng bước mở rộng vai trò của DN tư nhân trong nền kinh tế, song hành với cải cách thể chế, tài chính và công nghệ.

Từ Đại hội XIX (2017) đến Đại hội XX (2022), chính quyền Trung Quốc tiếp tục khẳng định vai trò trung tâm của khu vực tư nhân, với chiến lược “vừa hỗ trợ vừa kiểm soát”. Chính phủ đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo môi trường kinh doanh minh bạch - ổn định, giảm rào cản pháp lý và chi phí không chính thức. Đặc biệt, DN tư nhân được tiếp cận tín dụng ưu đãi, giảm thuế - phí và khuyến khích đổi mới sáng tạo.

Trung Quốc cũng xây dựng hệ sinh thái tài chính - công nghệ đồng bộ, từ các quỹ đầu tư mạo hiểm nhà nước đến trung tâm khởi nghiệp công nghệ cao. Nhà nước vừa là nhà đầu tư, vừa là nhà kiến tạo thị trường, dẫn dắt DN vào những ngành chiến lược như AI, bán dẫn, năng lượng xanh.

Song song đó, Trung Quốc kiểm soát chặt các rủi ro hệ thống như bất động sản, tài chính phi chính thức, và các tập đoàn công nghệ lớn - nhằm bảo đảm sự ổn định dài hạn của nền kinh tế. Mô hình “kiến tạo có kiểm soát” giúp nước này duy trì được tốc độ tăng trưởng cao mà vẫn giữ vững an toàn vĩ mô.

can-van-luc.jpg
TS. Cấn Văn Lực

Những con số biết nói

Kết quả cho thấy sức mạnh của định hướng chiến lược đúng đắn. Năm 1978, Trung Quốc chỉ có 155.000 hộ kinh doanh; đến năm 2024, con số này đã tăng vọt lên hơn 55 triệu DN tư nhân và 124 triệu hộ kinh doanh cá thể. Hiện nay, khu vực KTTN đóng góp khoảng 60% GDP, 50% thu ngân sách và tạo ra 80% việc làm ở khu vực thành thị.

Đáng chú ý, KTTN Trung Quốc chiếm tới 92% số DN trên cả nước, đóng góp hơn 70% sáng chế công nghệ cao và chiếm hơn 80% trong tổng số 14.600 “công ty khổng lồ nhỏ” - những DN công nghệ quy mô vừa có năng lực cạnh tranh toàn cầu. Họ cũng đi đầu trong các mô hình kinh doanh mới như thương mại điện tử, logistics thông minh và số hóa toàn diện.

Gợi ý chính sách cho Việt Nam

Từ mô hình Trung Quốc, Việt Nam có thể tham khảo một số định hướng để khơi thông tiềm năng khu vực tư nhân:

Thứ nhất. Kiến tạo môi trường kinh doanh minh bạch - ổn định - bình đẳng: Bảo đảm cạnh tranh lành mạnh giữa các khu vực kinh tế, giảm chi phí tuân thủ và rào cản gia nhập thị trường.

Thứ hai. Cải cách thể chế và thủ tục hành chính mạnh mẽ: Tập trung vào các nút thắt như cấp phép đầu tư, thuế, đất đai, tín dụng và bảo hiểm xã hội.

kttn.jpg

Thứ ba. Phát triển hệ sinh thái tài chính cho đổi mới sáng tạo: Thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm, bảo lãnh tín dụng cho SMEs, chương trình tín dụng xanh và chuyển đổi số.

Thứ tư. Khuyến khích hộ kinh doanh cá thể chuyển đổi thành DN chính thức: Thông qua hỗ trợ kế toán, đào tạo quản trị và ưu đãi thuế trong giai đoạn chuyển đổi.

Thứ năm. Tăng cường liên kết DN - viện nghiên cứu - đại học: Tạo hành lang phối hợp nghiên cứu - ứng dụng - thương mại hóa, phát triển các cụm liên kết ngành và trung tâm đổi mới sáng tạo vùng.

Thứ sáu. Quản trị rủi ro kinh tế vĩ mô hiệu quả: Kiểm soát chặt các lĩnh vực nhạy cảm như bất động sản, tài chính phi chính thức và công nghệ số mà không triệt tiêu động lực thị trường.

Phát triển khu vực kinh tế tư nhân không chỉ là yêu cầu thực tiễn, mà còn là trụ cột chiến lược trong quá trình hiện đại hóa đất nước. Kinh nghiệm từ Trung Quốc cho thấy, nếu có sự đồng hành giữa Nhà nước và doanh nghiệp, giữa hỗ trợ và kiểm soát, giữa cải cách và thực thi, thì khu vực KTTN hoàn toàn có thể trở thành động lực chính cho tăng trưởng bền vững.

Với những bước đi quyết liệt, nhất quán và đúng hướng, Việt Nam hoàn toàn có thể tái định vị lại khu vực kinh tế tư nhân - từ một bộ phận còn “chịu nhỏ” thành một lực lượng tiên phong trong công cuộc phát triển quốc gia.

Nếu được tháo gỡ bằng chính sách đúng hướng và triển khai hiệu quả, khu vực KTTN tại Việt Nam hoàn toàn có thể vươn lên trở thành một trong những trụ cột phát triển chủ lực của nền kinh tế - tương tự mô hình mà Trung Quốc đã kiến tạo thành công trong hơn 40 năm qua.

(*) Chuyên gia kinh tế, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ Quốc gia, chia sẻ tại hội thảo “Tháo gỡ bất cập chính sách để phát huy vai trò của KTTN trong nền kinh tế Việt Nam”, do Báo Nhân Dân, Đài Truyền hình Việt Nam và Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM phối hợp tổ chức chiều ngày 21/3.

Hưng Khánh ghi

Việt Nam có thể tham khảo một số hướng đi từ Trung Quốc, như tạo lập môi trường kinh doanh minh bạch, ổn định; xây dựng các chính sách tài chính hỗ trợ mạnh mẽ, đặc biệt là các quỹ đầu tư mạo hiểm và ưu đãi thuế; thúc đẩy đổi mới sáng tạo thông qua việc hỗ trợ DN tiếp cận công nghệ cao và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Để KTTN phát triển mạnh mẽ và thực sự trở thành động lực của nền kinh tế, cần có những giải pháp đồng bộ từ chính sách hỗ trợ đến sự thay đổi từ chính DN.

TS. Cấn Văn Lực (*)