Tổng Bí thư Tô Lâm chia sẻ về tầm nhìn phát triển dân tộc trong kỷ nguyên mới
Chiều ngày 31/10, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã có buổi trao đổi chuyên đề với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức và kỹ năng dành cho cán bộ thuộc quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (Lớp 3). Buổi trao đổi xoay quanh các nội dung quan trọng về “kỷ nguyên mới” - thời kỳ đánh dấu sự vươn mình mạnh mẽ của dân tộc.
Tham dự sự kiện có ông Nguyễn Xuân Thắng - Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương và Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo lớp học.
Một số nhận thức cơ bản về Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Tổng Bí thư Tô Lâm chia sẻ rằng kỷ nguyên là một giai đoạn lịch sử, được đánh dấu bởi những đặc điểm quan trọng hoặc các sự kiện có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xã hội, văn hóa, chính trị và tự nhiên. Kỷ nguyên thường được dùng để phân chia thời gian trong lịch sử theo những biến cố lớn hoặc những thay đổi căn bản trong đời sống chính trị, khoa học, công nghệ và môi trường. Ví dụ tiêu biểu bao gồm Kỷ nguyên Công nghiệp, Kỷ nguyên Thông tin, Kỷ nguyên Kỹ thuật số và Kỷ nguyên Vũ trụ, cũng như những kỷ nguyên trước đây như Kỷ nguyên Đồ đá, Kỷ nguyên Cổ đại và Kỷ nguyên Trung cổ.
Khái niệm "kỷ nguyên vươn mình" hàm ý về sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực và tự tin, nhằm vượt qua thách thức, vượt qua chính mình và thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, từ đó đạt được những thành tựu vĩ đại. Kỷ nguyên mới, hay kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên thịnh vượng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, với mục tiêu xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Trong đó, mỗi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển và làm giàu, đồng thời đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, cũng như hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu.
Mục tiêu của kỷ nguyên vươn mình hướng đến việc xây dựng một xã hội giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thành công các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, khi Việt Nam sẽ trở thành nước đang phát triển với công nghiệp hiện đại, có thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045, Việt Nam sẽ trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển với thu nhập cao. Đồng thời, kỷ nguyên mới cần khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực và tự hào dân tộc, gắn kết sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới được xác định từ Đại hội XIV của Đảng. Từ đây, mọi người dân Việt Nam, hàng trăm triệu người, cùng nhau đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm tranh thủ tối đa các thời cơ, thuận lợi, đồng thời đẩy lùi nguy cơ và thách thức, để đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh.
Cơ sở định vị mục tiêu đưa đất nước vào Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Tổng Bí thư nhấn mạnh rằng những thành tựu vĩ đại đạt được sau 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giúp Việt Nam tích lũy thế và lực để bứt phá trong giai đoạn tiếp theo. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, với trình độ thấp và bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển với thu nhập trung bình, hội nhập sâu rộng vào nền chính trị thế giới và nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam hiện đang đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại các tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia và dân tộc được bảo đảm. Quy mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986, và Việt Nam hiện nằm trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới, đồng thời đứng trong 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài.
Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 193 nước là thành viên Liên hợp quốc và đã xây dựng các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược với tất cả các cường quốc trên thế giới và khu vực. Đời sống người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh, và Việt Nam đã hoàn thành các mục tiêu Thiên niên kỷ sớm. Tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học-công nghệ, quốc phòng và an ninh không ngừng nâng cao; đồng thời, Việt Nam tích cực đóng góp vào việc duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực cũng như trên thế giới.
Thế giới đang trong giai đoạn biến đổi có tính thời đại, với khoảng thời gian từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập trật tự thế giới mới. Đây cũng là thời kỳ chiến lược quan trọng, giai đoạn nước rút của cách mạng Việt Nam, nhằm đạt được mục tiêu 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc cho 100 năm thành lập nước. Sự biến chuyển có tính thời đại mang đến cả cơ hội thuận lợi và nhiều thách thức, trong đó những thách thức nổi bật hơn và cơ hội mới có thể xuất hiện trong những khoảnh khắc đột biến của cục diện thế giới. Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đặc biệt là sự phát triển của trí tuệ nhân tạo và công nghệ số, mở ra cơ hội cho các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển có thể nắm bắt để phát triển vượt bậc.
Lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, dưới sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Đảng, khơi dậy ý chí tự lực, tự chủ, tự tin, tự cường và tự hào dân tộc, việc huy động sức mạnh toàn dân kết hợp với sức mạnh thời đại sẽ giúp con thuyền cách mạng Việt Nam đạt được những kỳ tích. Những kỳ tích như: một nước dân chủ thuộc địa nửa phong kiến có thể đánh bại hai đế quốc thực dân hùng mạnh; hoặc một nước từng bị bao vây, cấm vận đã thực hiện thành công công cuộc đổi mới với những thành tựu vĩ đại. Hiện nay là thời điểm ý Đảng hòa quyện với lòng dân trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, tiến tới xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc năm châu.
Từ những vấn đề trên, có thể thấy đây là thời điểm "hội tụ" tổng hòa các lợi thế và sức mạnh để đưa đất nước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, tiếp nối kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội và kỷ nguyên đổi mới.
Tổng Bí thư Tô Lâm cũng đã trao đổi về 7 định hướng chiến lược để đưa đất nước vào Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
1. Về cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng
Trong hơn 94 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta không ngừng tìm tòi, phát triển, bổ sung và hoàn thiện phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo và năng lực cầm quyền. Đây là yếu tố then chốt bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua mọi thác ghềnh, giành được những thắng lợi liên tiếp.
Tổng Bí thư chỉ rõ rằng bên cạnh những kết quả đạt được, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế: (i) Tình trạng ban hành nhiều văn bản, trong đó một số còn chung chung, dàn trải, trùng lặp và chậm bổ sung, sửa đổi. (ii) Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ, hoặc đã thể chế nhưng không khả thi. (iii) Mô hình tổng thể của hệ thống chính trị chưa hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ công tác của tổ chức, cá nhân, người đứng đầu có nội dung chưa rõ; phân cấp, phân quyền chưa mạnh. (iv) Mô hình tổ chức của Đảng và hệ thống chính trị vẫn còn nhiều bất cập, khiến cho ranh giới giữa lãnh đạo và quản lý khó phân định, dễ dẫn đến bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng. (v) Cải cách hành chính, đổi mới phong cách và lề lối làm việc trong Đảng còn chậm; số cuộc họp vẫn còn nhiều.
Yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo và năng lực cầm quyền, nhằm đảm bảo Đảng là người cầm lái vĩ đại, đưa dân tộc ta tiến lên mạnh mẽ đang đặt ra cấp thiết. Các giải pháp chiến lược gồm:
- Thực hiện nghiêm phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tuyệt đối không để xảy ra bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng.
- Tập trung tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của đảng, thực sự là hạt nhân trí tuệ, bộ “tổng tham mưu”, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước. Trong đó, nghiên cứu, đẩy mạnh việc hợp nhất một số cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng; sớm đánh giá toàn diện việc kiêm nhiệm chức danh của Đảng và hệ thống chính trị để có quyết sách phù hợp. Bảo đảm nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng không trùng với nhiệm vụ quản lý; phân biệt và quy định rõ nhiệm vụ cụ thể của các cấp lãnh đạo trong các loại hình tổ chức đảng, tránh tình trạng bao biện làm thay, hoặc tồn tại song trùng, hình thức.
- Đổi mới mạnh mẽ việc ban hành và quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng; xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên thật sự là các “tế bào” của Đảng. Nghị quyết của các cấp ủy, tổ chức đảng phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ tiếp thu, dễ thực hiện, xác định đúng, trúng yêu cầu, nhiệm vụ, con đường, cách thức phát triển của đất nước, của dân tộc, của từng địa phương, từng bộ, ngành; phải có tầm nhìn, tính khoa học, tính thực tiễn, thiết thực và tính khả thi; tạo sự phấn khởi, tin tưởng, kỳ vọng và động lực thôi thúc hành động của cán bộ, đảng viên, các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp và nhân dân thực hiện Nghị quyết của Đảng. Xây dựng các chi bộ cơ sở vững mạnh, có tính chiến đấu cao, có năng lực đưa nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống; đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ cơ sở Đảng, đảm bảo hoạt động sinh hoạt chi bộ thực chất, hiệu quả. - Đổi mới công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động của Đảng. Ban hành Quy định phân cấp thẩm quyền kiểm tra, giám sát gắn với phát hiện, xử lý nghiêm mọi hành vi lợi dụng kiểm tra, giám sát để tham nhũng, tiêu cực.
2. Về tăng cường tính đảng trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
Sau 2 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Tuy nhiên, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế: (i) Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng tính khả thi không cao; (ii) hệ thống pháp luật còn có quy định mâu thuẫn, chồng chéo, chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội, chậm được bổ sung, sửa đổi, thay thế. (iii) Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa tạo dựng được môi trường thực sự thuận lợi để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như trong Nhân dân. Trong 3 điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực, thì thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn,” đặt ra yêu cầu cấp thiết phát huy tính Đảng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa.
Tổng Bí thư nhấn mạnh, về quan điểm: Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần phải liên tục được hoàn thiện để thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, phát huy dân chủ, vì con người, công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Về giải pháp, đổi mới mạnh mẽ công tác lập pháp, trong đó: (i) Chuyển đổi tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý Nhà nước vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. Tư duy quản lý không cứng nhắc, dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm.” (ii) Các quy định của luật phải mang tính ổn định, có giá trị lâu dài; luật chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc; không cần quá dài. Những vấn đề thực tiễn biến động thường xuyên thì giao Chính phủ, địa phương quy định để bảo đảm linh hoạt trong điều hành. Tuyệt đối không hành chính hóa hoạt động của Quốc hội; luật hóa các quy định của Nghị định và Thông tư. (iii) Đổi mới quy trình xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật. Bám sát thực tiễn, đứng trên mảnh đất thực tiễn Việt Nam để xây dựng các quy định pháp luật phù hợp; vừa làm vừa rút kinh nghiệm; không nóng vội, nhưng cũng không cầu toàn, để mất thời cơ; lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể; thường xuyên đánh giá hiệu quả, chất lượng chính sách sau ban hành để kịp thời điều chỉnh bất cập, mâu thuẫn, giảm thiểu thất thoát, lãng phí các nguồn lực; chủ động phát hiện và tháo gỡ nhanh nhất những “điểm nghẽn” có nguyên nhân từ các quy định của pháp luật. (iv) Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”; cải cách triệt để thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp. (v) Tập trung kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, “lợi ích nhóm.” (vi) Chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới (nhất là những vấn đề liên quan đến cách mạng 4.0, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh…) tạo khung khổ pháp lý để thực hiện thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi số, tạo đột phá cho phát triển đất nước những năm tiếp theo.
3. Về tinh gọn tổ chức bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả
Tổng Bí thư nhấn mạnh rằng việc tinh gọn tổ chức bộ máy là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay. Hiện tại, 70% ngân sách quốc gia dành cho việc nuôi dưỡng bộ máy, trong khi công tác sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước vẫn còn nhiều bất cập. Cụ thể, một bộ phận vẫn còn cồng kềnh và chồng chéo giữa các cơ quan lập pháp và hành pháp, chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý. Nhiều bộ, ngành vẫn ôm đồm nhiệm vụ của địa phương, dẫn đến tình trạng cơ chế xin cho, dễ nảy sinh tiêu cực và tham nhũng. Công tác tinh giản biên chế, gắn với vị trí việc làm và nâng cao chất lượng cán bộ công chức, viên chức vẫn chưa triệt để. Đây là một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển, gia tăng thủ tục hành chính, gây lãng phí thời gian và công sức của doanh nghiệp và công dân, làm lỡ thời cơ phát triển của đất nước.
Chủ trương chiến lược trong thời gian tới bao gồm: (i) Tiếp tục xây dựng, tinh gọn bộ máy tổ chức Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội để hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tổ chức các cơ quan của Đảng theo hướng thực sự trở thành hạt nhân trí tuệ, là "bộ tổng tham mưu," đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước. (ii) Cắt giảm các đầu mối trung gian không cần thiết, sắp xếp tổ chức theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với quan điểm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm,” đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, xác định rõ trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền và giữa người quản lý với người lao động. Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát để đảm bảo sự thống nhất trong quản lý nhà nước và phát huy tính chủ động, sáng tạo, nâng cao khả năng tự chủ, tự cường của các địa phương. (iii) Sơ kết và đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 18 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về việc tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn và hiệu lực, hiệu quả trong toàn hệ thống chính trị, trình Hội nghị Trung ương 11 khóa XIII. Điều này sẽ làm cơ sở cho những quyết sách mới nhằm đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức cán bộ theo định hướng đã được Trung ương thống nhất.
4. Chuyển đổi số
Chuyển đổi số không chỉ đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là một quá trình xác lập phương thức sản xuất mới, hiện đại - "phương thức sản xuất số." Trong đó, sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo là đặc trưng của lực lượng sản xuất; dữ liệu trở thành tài nguyên quan trọng và tư liệu sản xuất cần thiết. Quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số.
Tổng Bí thư lưu ý rằng những quan hệ sản xuất chưa phù hợp đang cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất mới. Các cơ chế, chính sách, pháp luật hiện tại chưa thực sự đồng bộ, còn chồng chéo và chưa tạo ra môi trường thuận lợi để thu hút nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực từ dân. Công tác cải cách hành chính, chuyển đổi số và xây dựng chính quyền điện tử còn hạn chế. Nhiều thủ tục hành chính vẫn rườm rà, lạc hậu, qua nhiều khâu, tốn thời gian và công sức của người dân và doanh nghiệp, dễ dẫn đến tham nhũng vặt và cản trở sự phát triển. Việc kết nối và chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin của các bộ, ngành, địa phương và cơ sở dữ liệu quốc gia chưa thông suốt. Nhiều dịch vụ công trực tuyến có chất lượng thấp và tỷ lệ người sử dụng chưa cao; tổ chức vận hành bộ phận "một cửa" ở nhiều nơi cũng chưa đạt hiệu quả.
Việc thực hiện cách mạng chuyển đổi số cần có những cải cách mạnh mẽ và toàn diện nhằm điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển, tận dụng tối đa thời cơ do Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại, để đưa đất nước tiến nhanh hơn. Bộ Chính trị sẽ sớm nghiên cứu và ban hành Nghị quyết về chuyển đổi số quốc gia, lãnh đạo việc thực hiện quyết liệt trong toàn Đảng và hệ thống chính trị.
Một số giải pháp chủ yếu bao gồm: (i) Tập trung xây dựng hành lang pháp lý cho phát triển số, tạo nền tảng cho Việt Nam nắm bắt cơ hội từ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cần thường xuyên rà soát và sửa đổi các quy định không còn phù hợp, tạo hành lang cho các mô hình kinh tế mới như kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn và trí tuệ nhân tạo, đảm bảo khung pháp lý không trở thành rào cản cho sự phát triển, đồng thời bảo đảm an ninh quốc gia và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân và doanh nghiệp. (ii) Cần có cơ chế đột phá để thu hút nhân tài trong và ngoài nước; xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực với kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi mới, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. (iii) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng nền tảng số kết nối và chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan, tổ chức. Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ 3 trong ASEAN về chính phủ điện tử và kinh tế số. (iv) Đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với đảm bảo an ninh, an toàn, xây dựng xã hội số, số hóa toàn diện hoạt động quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao. Kết nối đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai và doanh nghiệp, tạo nền tảng cho bộ máy tinh gọn, cải cách thủ tục hành chính thực chất và phát triển kinh tế số, xây dựng công dân số.
5. Chống lãng phí
Tổng Bí thư chỉ ra rằng lãng phí, mặc dù không phải là hành vi lấy của công đút túi, nhưng vẫn gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho sự phát triển. Nó dẫn đến suy giảm nguồn lực con người và tài chính, giảm hiệu quả sản xuất, gia tăng chi phí, cạn kiệt tài nguyên, làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo và suy giảm lòng tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước. Lãng phí hiện đang diễn ra khá phổ biến dưới nhiều hình thức khác nhau, tạo ra rào cản cho phát triển kinh tế - xã hội và bỏ lỡ nhiều cơ hội quan trọng.
Một số dạng thức của lãng phí nổi lên trong thực tế bao gồm: (i) Chất lượng xây dựng và hoàn thiện pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, dẫn đến khó khăn trong việc thực thi và gây thất thoát tài nguyên. (ii) Lãng phí thời gian và công sức của doanh nghiệp và cá nhân khi thủ tục hành chính phức tạp và dịch vụ công trực tuyến chưa thuận tiện. (iii) Lãng phí cơ hội phát triển của địa phương và đất nước do bộ máy nhà nước hoạt động chưa hiệu quả, một bộ phận cán bộ thiếu năng lực và né tránh trách nhiệm. (iv) Lãng phí tài nguyên thiên nhiên và tài sản công do quản lý, sử dụng chưa hiệu quả, đặc biệt trong việc giải ngân vốn đầu tư công và thực hiện các chương trình quốc gia. (v) Lãng phí trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng của nhân dân diễn ra dưới nhiều hình thức. (vi) Lãng phí do hệ thống tiêu chuẩn, định mức chưa phù hợp nhưng chậm được sửa đổi. Trong khi đó, việc xử lý lãng phí chưa được coi trọng, thường chỉ gắn với tham nhũng mà không tạo ra phong trào mạnh mẽ về thực hành tiết kiệm trong xã hội.
Giải pháp chiến lược trong những năm tới là: (i) Đẩy mạnh phòng, chống lãng phí song song với phòng, chống tham nhũng. Cần ban hành quy định rõ ràng để nhận diện và xử lý nghiêm các cá nhân, tập thể gây thất thoát tài sản công. (ii) Rà soát, bổ sung các quy định về cơ chế quản lý và định mức kinh tế - kỹ thuật không còn phù hợp với thực tiễn. Hoàn thiện quy định xử lý hành vi lãng phí và quản lý tài sản công. (iii) Giải quyết dứt điểm các dự án quan trọng quốc gia và các dự án có hiệu quả thấp, gây lãng phí lớn. (iv) Xây dựng văn hóa phòng, chống lãng phí; đưa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trở thành “tự giác,” “tự nguyện,” “cơm ăn nước uống, áo mặc hàng ngày.”
6. Cán bộ
Cán bộ và công tác cán bộ là những vấn đề “rất trọng yếu,” “quyết định mọi việc,” bởi vì “cán bộ là cái gốc của mọi công việc.” Đây chính là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Việc xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đang đặt ra yêu cầu cấp thiết.
Về phẩm chất và yêu cầu đối với cán bộ trong giai đoạn cách mạng mới, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh những điểm sau: (i) Cán bộ cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo và dám đột phá vì lợi ích chung. Họ phải hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc và lợi ích của nhân dân lên hàng đầu. (ii) Cán bộ cần có bản lĩnh và quyết tâm cao, sẵn sàng dấn thân, hy sinh lợi ích cá nhân. Họ nên dám đi đầu trong việc đổi mới, loại bỏ những gì cũ kỹ, lạc hậu; khơi thông điểm nghẽn, giải quyết vướng mắc và ách tắc trong thực tiễn, từ đó mang lại hiệu quả cao trong thực hiện chức trách và nhiệm vụ. Họ cần phải xử lý những sai sót tồn đọng, kéo dài, hoặc có những bước đột phá đối với những vấn đề mới chưa có quy định hoặc có quy định chồng chéo, thiếu thống nhất, khó thực hiện. (iii) Cán bộ cần có năng lực cụ thể trong việc tổ chức thực hiện, đưa các chủ trương và chiến lược của Đảng vào thực tiễn tại từng bộ, ban, ngành, địa phương (bao gồm chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển hạ tầng chiến lược, cải cách thủ tục hành chính...).
Tổng Bí thư cũng chỉ ra các giải pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn mới: (i) Đổi mới mạnh mẽ công tác tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động và đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, dựa trên việc tìm người dựa trên sản phẩm cụ thể có thể đo đếm được. (ii)Tăng cường tự đào tạo, tự bồi dưỡng, đặc biệt là đối với yêu cầu chuyển đổi số. (iii) Xây dựng cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá và dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Điều này cần phân định rõ giữa người dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung và những người phiêu lưu, liều lĩnh, viển vông, không thực tế. Cần bảo vệ những trường hợp gặp nguy cơ rủi ro hay sai sót ngay từ đầu, không để họ bị nhụt chí. (iv) Sàng lọc và đưa ra khỏi vị trí công tác những người không đủ phẩm chất, năng lực và uy tín. (v) Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và thử thách đối với các đồng chí là nhân sự được quy hoạch tham gia cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp, đảm bảo lựa chọn ra cấp ủy, nhất là người đứng đầu, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và dám đổi mới sáng tạo vì sự nghiệp chung. Họ phải có khả năng lãnh đạo thực hiện thắng lợi các chủ trương của Đảng và đưa nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống trong từng lĩnh vực và địa bàn.
7. Về kinh tế
Tổng thể kinh tế Việt Nam đã có sự tăng trưởng liên tục từ khi thực hiện Cương lĩnh 1991, thường xuyên nằm trong nhóm những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới, từ đó đưa Việt Nam từ một nước thu nhập thấp trở thành nước thu nhập trung bình.
Tổng Bí thư chỉ rõ rằng, mặc dù tốc độ tăng trưởng cao, nhưng nguy cơ tụt hậu về kinh tế vẫn hiện hữu, và có nguy cơ Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình, khó tiệm cận với các nước đang phát triển. Điều này thể hiện qua năm điểm chính:
(i)Tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam đang giảm dần và thấp hơn nhiều nước trong khu vực. Giai đoạn 2021-2025 ước đạt 4,8%, thấp hơn so với bình quân ba năm 2016-2018 (6,1%) và không đạt mục tiêu đề ra (6,5%). Trong khi đó, Trung Quốc từ đầu những năm 1990 đã tăng liên tục mỗi năm đều đạt 9%. (ii) Năng suất các nhân tố tổng hợp, yếu tố quan trọng trong chất lượng tăng trưởng, cũng có xu hướng giảm. Giai đoạn 2015-2019 đạt 2,77%, đứng đầu khu vực ASEAN, nhưng năm 2022 là -1,36% và năm 2023 là -2%, cho thấy hiệu quả của nền kinh tế có xu hướng giảm. (iii) Tăng trưởng của Việt Nam từ năm 2021 đến nay chủ yếu phụ thuộc vào xuất khẩu, trong đó khối FDI chiếm trên 70% (tương đương 60% GDP). Các doanh nghiệp này nhập khẩu hơn 80% linh kiện và thiết bị, chỉ sử dụng những tư liệu sản xuất giản đơn như lao động, đất đai, nguyên vật liệu cơ bản, không giúp Việt Nam xây dựng ngành công nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp nội địa có năng lực cạnh tranh cao trong chuỗi giá trị toàn cầu. Khi thời kỳ dân số vàng kết thúc (khoảng năm 2027-2037), giá nhân công sẽ tăng, lợi thế cạnh tranh không còn, dẫn đến FDI có thể dịch chuyển sang nước khác hoặc sụt giảm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế Việt Nam. (iv) Tình trạng nhiều cán bộ, công chức sợ trách nhiệm, đùn đẩy và né tránh trong xử lý công việc, sợ đổi mới và không dám nghĩ, dám làm, đã ảnh hưởng đến chất lượng thực thi công vụ và tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế-xã hội. (v) Các nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế chưa được phát huy hiệu quả. Nguồn nhân lực còn hạn chế khi năng suất lao động và động lực làm việc của cán bộ quản lý nhà nước giảm sút. Nguồn vật lực còn lãng phí, nguồn tài lực chưa được khai thông, gây ra lãng phí trong việc sử dụng đất đai (trong khi việc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai diễn ra chậm), khai thác và chế biến khoáng sản chủ yếu ở mức thô. Việc phát triển hạ tầng giao thông chưa hiệu quả do quy hoạch phát triển hạ tầng sân bay và cảng biển còn dàn trải, đầu tư manh mún ở nhiều địa phương có vị trí địa lý gần nhau mà không có lợi thế khác biệt. Ngoài ra, còn có tình trạng mất cân đối về hạ tầng năng lượng và thị trường tài chính, tiền tệ thiếu bền vững khi lượng vốn lớn bị đóng băng vào bất động sản.
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên bao gồm:
Điểm nghẽn về thể chế và những hạn chế trong việc thực thi pháp luật. Tình trạng sợ sai, sợ trách nhiệm, không dám làm và né tránh trách nhiệm bằng cách đùn đẩy công việc lên cấp quản lý trên hoặc sang bộ, ngành khác. (ii) Chuyển đổi mô hình kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu đang diễn ra chậm. Tiến độ đầu tư công chậm và hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, còn dàn trải với nhiều lãng phí, chưa phát huy vai trò dẫn dắt để kích hoạt hiệu quả các nguồn lực ngoài nhà nước. Hoạt động cơ cấu lại các tổ chức tín dụng và xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém cũng đang diễn ra chậm; tình trạng “sở hữu chéo” và cho vay tín dụng đối với doanh nghiệp “nội bộ,” “sân sau” còn phức tạp và chưa có biện pháp giải quyết triệt để. Việc xác định các ngành hàng chiến lược và quốc gia giá trị cao chưa được quan tâm đúng mức. (iii) Hệ thống kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị thiếu tính kết nối; việc xây dựng hạ tầng số cũng đang diễn ra chậm. (iv) Kinh tế tư nhân chưa trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế và chưa tận dụng tốt các nguồn lực đầu tư nước ngoài. (v) Ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ chưa đem lại kết quả rõ nét; chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, thiếu lao động có trình độ cao để đáp ứng nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế mũi nhọn và công nghệ cao, phục vụ cho phát triển số. (vi) Các yếu tố bên ngoài tác động tiêu cực, gia tăng nguy cơ tụt hậu về kinh tế.
Tổng Bí thư chỉ rõ một số giải pháp, định hướng chiến lược phát triển kinh tế, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, bẫy thu nhập trung bình: (i) Đột phá mạnh mẽ hơn về thể chế phát triển, tháo gỡ điểm nghẽn, rào cản, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, huy động, khơi thông mọi nguồn lực bên trong, bên ngoài, nguồn lực trong dân, phát triển khoa học và công nghệ đồng bộ, thông suốt, tất cả vì sự phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội của đất nước và phát triển nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; đồng bộ và đột phá trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội là ưu tiên cao nhất. (ii) Tập trung xây dựng mô hình xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa mà Cương lĩnh của Đảng đã xác định (dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, do nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, Đảng Cộng sản lãnh đạo). (iii) Tập trung phát triển lực lượng sản xuất mới (kết hợp giữa nguồn nhân lực chất lượng cao với tư liệu sản xuất mới, hạ tầng chiến lược về giao thông, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh) gắn với hoàn thiện quan hệ sản xuất. (iv) Khởi xướng và thực hiện cách mạng chuyển đổi số. Đẩy mạnh công nghệ chiến lược, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực chính cho phát triển.