Việt Nam chưa tiếp cận yêu cầu ngày càng cao của ngành công nghiệp Halal thế giới
Hội - Câu lạc bộ - Ngày đăng : 09:43, 14/07/2023
Chiều 13/7/2023, Hiệp hội Doanh nghiệp TP.HCM (HUBA), Hội Lương thực Thực phẩm TP.HCM (FFA) và Trung tâm Xúc tiến thương mại và Đầu tư TP.HCM (ITPC) đã phối hợp tổ chức “Hội thảo về thị trường Halal: Khái niệm, tiềm năng và thách thức”.
Hội thảo nhằm cung cấp đến các doanh nghiệp thực phẩm Việt Nam những thông tin mới nhất về tổng quan thị trường thương mại các nước Hồi giáo, các yêu cầu về chứng chỉ Halal cho ngành công nghiệp thực phẩm ở các nước Hồi giáo, để nâng cao nhận thức về tiềm năng thị trường thực phẩm Halal, tầm quan trọng của chứng nhận Halal và các biện pháp giúp các doanh nghiệp Việt Nam tham gia hiệu quả vào chuỗi sản xuất và cung ứng thực phẩm nói chung và thực phẩm Halal nói riêng trên phạm vi toàn cầu.
Mang lại 2.300 tỷ USD mỗi năm
Theo bà Lý Kim Chi - Chủ tịch Hội Lương thực Thực phẩm TP.HCM, hiện nay thị trường thực phẩm Halal toàn cầu có tiềm năng rất lớn và đang ngày càng phát triển với tốc độ nhanh tại khắp các châu lục từ châu Á, Trung Đông - châu Phi cho tới châu Âu và châu Mỹ. Nhu cầu về sản phẩm Halal gia tăng mạnh không chỉ vì sự tăng nhanh của dân số Hồi giáo, mà còn phản ánh xu hướng nhiều người không theo đạo Hồi ở những nền kinh tế lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, EU ngày càng ưa chuộng các sản phẩm Halal, do đáp ứng các tiêu chuẩn cao về vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường.
Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu nông, thủy sản lớn trên thế giới với nhiều mặt hàng tiêu biểu như gạo, cao su, chè, điều, cà phê, hồ tiêu, tôm, cá… và có những lợi thế quan trọng, nếu được tận dụng, phát huy tốt sẽ giúp xuất khẩu của Việt Nam vững vàng tham gia vào thị trường sản phẩm Halal. Đặc biệt, vị trí địa lý gần những thị trường Halal lớn khi khoảng 62% dân số Hồi giáo tập trung tại châu Á. Ngay tại Đông Nam Á, Indonesia hay Malaysia - những quốc gia Hồi giáo đông dân này sẽ là một trong những thị trường tiềm năng, không xa lạ với doanh nghiệp Việt Nam.
Hợp tác giao thương với Malaysia trong chế biến và xuất khẩu thực phẩm Halal giúp Việt Nam không chỉ khai thác được thị trường Malaysia mà còn mở rộng xuất khẩu sang các nước Trung Đông đầy tiềm năng cũng như thâm nhập thị trường Halal toàn cầu. Ước tính, thị trường Halal toàn cầu sẽ mang lại 2.300 tỷ USD mỗi năm khi nhu cầu về các sản phẩm Halal từ các nước Hồi giáo ngày một tăng.
Song thực tế, các doanh nghiệp thực phẩm của Việt Nam mới đáp ứng được một phần nhu cầu của các nước Hồi giáo. Bởi để đưa được các sản phẩm vào các quốc gia Hồi giáo đòi hỏi các doanh nghiệp phải có chứng nhận Halal cho các sản phẩm.
Hiện nay, các tiêu chuẩn và quy định Halal đang ngày càng nghiêm ngặt, chứng nhận Halal lại không có giá trị vĩnh viễn, không được công nhận như nhau ở tất cả quốc gia, với tất cả mặt hàng. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp vì phải tái chứng nhận nhiều lần và phải căn cứ vào từng thị trường xuất khẩu để đăng ký chứng nhận cho phù hợp.
Bà Lý Kim Chi - Chủ tịch Hội Lương thực Thực phẩm TP.HCM chia sẻ tại hội thảo |
“Qua cuộc hội thảo này, chúng tôi mong muốn sẽ đem đến nhiều thông tin hữu ích để các doanh nghiệp thực phẩm Việt Nam hiểu rõ hơn về những quy định, tiêu chuẩn và cách thức xin cấp giấy chứng nhận cho các sản phẩm Halal”, bà Lý Kim Chi chia sẻ.
Theo bà Chi, Việt Nam mới đang trong giai đoạn đầu phát triển ngành công nghiệp Halal thành một trong những lĩnh vực xuất khẩu chính của mình, do vậy Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm của các nước, đặc biệt là Malaysia để tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng xuất khẩu sản phẩm Halal ra thế giới.
Theo ông Nguyễn Tuấn - Phó giám đốc ITPC, khu vực Đông Nam Á - Nam Á - Nam Thái Bình Dương là thị trường xuất khẩu tiềm năng đối với sản phẩm Halal, với số dân theo đạo Hồi và sử dụng thực phẩm Halal khoảng 860 triệu người (chiếm 66% tổng số người Hồi giáo trên thế giới). Đây là địa bàn tiêu thụ thực phẩm Halal lớn nhất thế giới với khoảng 470 tỷ USD, trong đó Đông Nam Á là 230 tỷ USD, Nam Á - Nam Thái Bình Dương là 238 tỷ USD.
Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu nông, thủy sản lớn trên thế giới, nằm ở vị trí địa lý gần những thị trường Halal lớn. Tuy nhiên, thực tế xuất nhập khẩu thực phẩm của các doanh nghiệp ta vào thị trường Halal mới chỉ là bước đầu khai phá. Mỗi năm, Việt Nam có khoảng 50 công ty được cấp chứng nhận Halal với các sản phẩm chủ yếu là hải sản, đồ uống, thực phẩm đóng hộp, bánh kẹo, đồ ăn chay và dược phẩm.
Yêu cầu cao về chế biến, đóng gói và bảo quản
Bà Wong Chia Chiann - Tổng lãnh sự quán Malaysia tại TP.HCM cho biết, Halal yêu cầu “quá trình chuẩn bị thực phẩm Halal phải tuân theo các quy tắc Hồi giáo và tính toàn vẹn, an toàn và vệ sinh của sản phẩm được duy trì trong suốt chuỗi cung ứng”.
Điều này có nghĩa là nguồn thực phẩm, quá trình chuẩn bị, đóng gói phải là Halal và phù hợp với luật Shariah (các quy tắc Hồi giáo). Thực phẩm Halal không chỉ không có thịt lợn hoặc không có cồn, mà nguồn thịt hoặc gia cầm cũng phải từ động vật được cho phép tiêu thụ (gà, gia súc, cừu) và phải được giết mổ theo quy tắc Hồi giáo để biến chúng thành Halal.
Tiêu chuẩn Halal yêu cầu khâu vệ sinh chặt chẽ, bảo quản riêng biệt để tránh bị nhiễm bẩn. Toàn bộ dây chuyền sản xuất phải hợp vệ sinh và không gây hại cho sức khỏe.
Tiêu chuẩn Halal yêu cầu khâu vệ sinh chặt chẽ, bảo quản riêng biệt để tránh bị nhiễm bẩn |
Ông Haji Machdares Samael - Quyền Chủ tịch Ủy ban Hồi giáo TP.HCM cho biết, Việt Nam chưa có cơ quan nhà nước cấp chứng nhận về tiêu chuẩn Halal, thay vào đó chúng ta có một số tổ chức tư nhân cấp chứng nhận Halal. Do có nhiều hệ thống tiêu chuẩn Halal trên thế giới nên các tổ chức chứng nhận Halal của Việt Nam buộc phải làm việc với nhiều tổ chức chứng nhận Halal của các nước để được chấp nhận chứng nhận Halal, khiến cho chi phí cấp chứng nhận tăng lên. Các chi phí đó cuối cùng do các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam vào thị trường Halal phải gánh chịu, từ đó làm giảm tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam.
Bên cạnh đó, vì nhiều lý do khác nhau, các tổ chức chứng nhận Halal của Việt Nam hiện chưa tiếp cận yêu cầu ngày càng cao của ngành công nghiệp Halal thế giới. Đội ngũ kiểm định viên theo dõi hoạt động sản xuất các mặt hàng Halal còn có những hạn chế nhất định. Các tổ chức tư nhân cấp chứng nhận Halal của Việt Nam cũng chưa đủ khả năng tài chính để kết nối thường xuyên với các tổ chức công nhận Halal thế giới.
Hiện tại, các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu sản phẩm Halal gặp khó khăn trong đầu tư dây chuyền sản xuất, trang thiết bị riêng biệt, nguồn nguyên liệu an toàn cho đến các khâu đóng gói, vận chuyển, bảo quản… theo tiêu chuẩn Halal. Điều này nếu không được giải quyết, sẽ hạn chế khả năng doanh nghiệp Việt Nam trong việc giữ và mở rộng thị trường Halal.
Thị trường Halal đầy tiềm năng, vừa là thách thức, vừa là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam. Việc các nước Hồi giáo quyết tâm hệ thống hóa tiêu chuẩn Halal một mặt đang tạo ra rào cản đối với hàng hóa xuất khẩu vào các thị trường này nhưng cũng sẽ tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp nhanh nhạy, biết tận dụng cơ hội và thích ứng được với bối cảnh mới.
Thị trường Halal đầy tiềm năng, vừa là thách thức, vừa là cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam |
Cũng theo lời ông Haji Machdares Samael, bên cạnh việc nhận thức đúng và đầy đủ về thị trường Halal, chúng ta cần có sự chuẩn bị tốt từ cả phía các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp để vượt qua thách thức, đồng thời không bỏ lỡ cơ hội do thị trường này đem lại.