Lễ chạp mả xứ Quảng

Toàn cảnh - Ngày đăng : 03:39, 06/02/2013

Khi những đóa lau bên bờ ruộng làng Trình (Quảng Xuân, Quảng Trạch, Quảng Bình) nở bung phất cờ cũng là lúc hơn hai ngàn ngôi làng ở huyện bắt đầu lên hương khói làm lễ chạp mả (tảo mộ). Suốt tháng Chạp, cả huyện khói hương cho mồ mả tổ tiên, những làng chài ven bờ biển Đông có những lễ tục cúng biển trong mùa tảo mộ ấm cúng lạ kỳ.
Lễ chạp mả xứ Quảng

Khi những đóa lau bên bờ ruộng làng Trình (Quảng Xuân, Quảng Trạch, Quảng Bình) nở bung phất cờ cũng là lúc hơn hai ngàn ngôi làng ở huyện bắt đầu lên hương khói làm lễ chạp mả (tảo mộ). Suốt tháng Chạp, cả huyện khói hương cho mồ mả tổ tiên, những làng chài ven bờ biển Đông có những lễ tục cúng biển trong mùa tảo mộ ấm cúng lạ kỳ.

Đọc E-paper

Đường về Lũ Phong có lễ chạp mả chữ

Ngàn làng chạp mả

Đất Quảng Trạch mùa tháng Chạp đi đâu cũng khói hương nghi ngút, cả hơn hai ngàn ngôi làng tuần tự tổ chức tảo mộ theo ấn định của tiên tổ xa xưa.

Có làng tảo mộ cho Thành Hoàng bổn thổ, có làng tảo mộ cho ông tổ khai canh, có làng tảo mộ cho Thành Hoàng là nữ khai khẩn đầu tiên của nước Nam.

Sau ngày tảo mộ làng là ngày tảo mộ họ, sau ngày tảo mộ họ lại đến tảo mộ ông bà, nhà nhà ríu rít tiếng trẻ, xóm thôn náo nức nói cười. Bắt đầu từ vùng nam sông Gianh là 9 xã, từ ngày 1 - 15 tháng Chạp, cả ngàn vạn người trong vùng cùng cuốc xẻng ra tảo mộ tổ tiên.

Sau ngày 15, vùng phía bắc sông Gianh bắt đầu tuần tự từ vùng núi đến làng biển lên hương lên đèn, đắp đất mồ mả ông bà cho tâm được thản, trí được yên.

Lạ nhất là tảo mộ cho nữ Thành Hoàng khai canh duy nhất của nước Nam ở làng Phù Lưu. Làng có nữ khai canh Nguyễn Thị Quý Ba, từ Hà Nam vào khai khẩn xóm thôn lúc quân Nguyên Mông xâm lược.

Năm 42 tuổi, bà nghe lời vua Trần, vào trấn ở phía nam Hoành Sơn tại bắc sông Gianh để khai nghề trồng dâu nuôi tằm, mở thêm đất mới, động viên người dân đoàn kết.

Sau ba năm, bà xây dựng được một vùng dân cư trù mật, rộng lớn, mọi người tôn bà là Chủ quản. Ngày 15 tháng Chạp năm 1336 bà qua đời, vua Trần Hiển Tông thấy bà có công lớn nên đã phong là Tiên sơn Khai khẩn Nguyễn Thị Quý Ba Hộ củng Sinh nhi Công phù Hiển hách, Dực bảo Trung hưng, Trung đẳng Thần.

Hiện đến ngày 15 tháng Chạp hằng năm, người làng tảo mộ bà với lễ vật là sản vật của làng và đốt vải vóc bằng lụa do người dân dệt ra để ghi nhớ mãi công ơn khai phá làng mạc cho đến hôm nay của nữ khai canh duy nhất nước Nam.

Lễ mả họ cung kính

Tảo mộ cho chữ

Đầu tháng Chạp, người làng Lũ Phong (Quảng Phong) cũng bắt đầu tảo mộ. Làng Lũ Phong thờ chữ trong đình và lập năm chữ thành các mồ mả tượng trưng để mỗi năm đắp bồi niềm trọng chữ, kính chữ, hiếu chữ để giữ đất, giữ làng. Họ thờ các chữ: Thần, Dân, Văn, Võ, Lễ.

Người Lũ Phong quan niệm, mộ Thần sẽ được thần phù hộ; mộ Dân sẽ được dân hỗ trợ; mộ Văn để hiểu dân; mộ Võ để giữ làng, giữ đất, bảo vệ dân; mộ Lễ để không quên gốc mình từ dân.

Những người già nhất làng Lũ Phong kể, việc thờ chữ, tảo mộ cho chữ thể hiện chí khí người Lũ Phong với trách nhiệm trước làng nước, vậy nên làng sinh ra nhiều bậc anh hùng được vua nhà Nguyễn vinh danh, như tướng Phạm Xuân Quế từng được cử coi giữ thành trì vùng Gia Định thời vua Thiệu Trị.

Tuy ông không phải là người khai đất mở làng, nhưng vì có công lớn nên khi mất đã được tôn là Thành Hoàng làng. Cụ Nguyễn Văn Ưu (89 tuổi) nói: "Làng tôi tự hào thờ chữ cùng tổ tiên, ông bà, ngày tảo mộ tảo mả của họ, của làng thì đến khu đất cao đốt chữ của những người viết giỏi để nhớ gốc của ta có Dân, có Thần, để biết làng nước được giữ bằng sức vóc của Võ và Lễ. Người làng tôi hiểu rõ không phải cứ dùng Võ là giữ được làng, mà phải dùng cả Lễ nữa, vì trong Lễ có cả trọng đạo, đầy đủ các phương cách mềm dẻo của sự đời dâu bể, trong Lễ còn có lễ với dân mới được dân tin, dân theo".

Nơi bãi đất cao ngoài đồng làng giáp sông Gianh, cỏ mọc xanh rì, khi người làng đắp thêm mồ mả tổ tiên những nấm đất bền chặt thì họ chọn những người có chữ đẹp viết lên giấy điệp hoặc giấy dó các dòng chữ về tiền nhân, về thần chữ, sau đó cúng bái.

Bài cúng đơn giản nhưng thâm sâu, họ tôn chữ thành thần, nâng chữ thành đạo, thành linh ứng, linh nghiệm..., sau đó đốt những tờ giấy đó cho gió mang những lời cầu khấn đi. Tất thảy đều với niềm kính trọng vô cùng và lạ lẫm nhân văn.

Chạp mả bên chân sóng

Thôn Thanh Bình, xã Quảng Xuân bên chân sóng, làng mảnh, dài trên triền cát tít tắp của bờ Biển Đông. Cứ vào hai ngày 17 và 18 tháng Chạp thường niên, người làng lại mở hội chạp mả.

Ngày 17, làng tổ chức cho đàn ông mổ lợn, chạp mả họ. Đàn ông ra mả họ thắp hương khấn vái, tự đi mua hoa quả, bánh trái, đàn bà không được mó tay vào bất cứ việc gì.

Chuẩn bị xong mọi thứ, để vào thúng mủng, gánh phươn trên cát đến mả họ rồi cùng nhau vun cát, quét lăng, mọi việc đều do một tay đàn ông làm, đàn bà không được vây đến. Thấy lạ, hỏi mãi những người có tuổi mới cho biết, tục lệ chạp họ từ xưa để lại và được duy trì rất nghiêm, đàn bà phải ở nhà, làm nước nôi, chuẩn bị cho ngày lễ chạp mả ông bà vào ngày hôm sau.

Hết hương khói mả họ, người làng từng đợt ra bờ biển, khói hương bên chân sóng, họ cầu khấn thần biển cho họ đi êm về tốt, con cá con tôm đủ đầy nuôi sống xóm thôn.

Lạ nhất là bài cúng của họ Dương, có đoạn khấn: "Mong cho Đại Hải (biển lớn) làm binh giặc không xâm chiếm được bản quán dân quê. Giặc giã phương nào đến cũng bị sóng thần đánh chìm, bị sóng nước thổi bay, bị dân làng chống trả phải lui về xấu hổ. Mong cho biển thần cưu mang ngư phu sức khỏe kiếm ăn có sức nuôi con, hun đức chống giặc khi khốn, lao động khi khoan, mong thần biển mẹ đất phù hộ”. Khấn rồi, họ đốt vàng bạc, giấy tiền cho những vong linh chết biển, cúi lạy sát đất cho cuộc biết ơn mỗi năm vẫn làm.

Ra gần đèo Ngang, người làng Cảnh Dương cúng mồ mả xong còn đọc văn cúng thần cá voi rằng: "Rằng năm quốc thứ Mậu Thân/ Trời sinh thánh thượng Duy Tân trị vì/ Hà Thanh hải yến bốn bề/ Ngư ông thượng thọ thác về cõi tiên/ Lênh đênh mặt nước dạo miền/ Tìm nơi đất tốt dân hiền ghé vô/ Cảnh Dương vui thú hải hồ/ Sở vọng trông thấy, rước vô lạch nhà/ Tưng bừng nổi trống phèng la/ Nghe tin làng nước gần xa vui lòng/ Tức thì nắm vía bắt đồng/ Con quan Tuần Vũ vốn dòng nữ nhi/ Hình dung yểu điệu phương phi/ Mày tằm mắt phượng có bề thanh tâm/ Cúng cho non nước sâm cầm/ Cúng cho Ngài biết dân làng tri ân".

HÀN THƯ