Mưu sinh dưới đáy biển

Du lịch - Ngày đăng : 06:30, 25/12/2015

Phú Hải 1 là một làng nghèo nằm ven biển, người dân quanh năm mưu sinh bằng nghề bắt tôm, ốc dưới đáy biển.
Mưu sinh dưới đáy biển

"Anh cứ đi thẳng, thấy làng nào mà từ thanh niên cho đến cụ già, ai cũng có nước da đen bóng đích thị là làng thợ lặn...", lời chỉ dẫn của cụ già ven đường mới nghe ai cũng bật cười nhưng lại giúp chúng tôi dễ dàng tìm đến làng Phú Hải 1, xã Lộc Vĩnh (Phú Lộc, Thừa Thiên - Huế). Đây là một làng nghèo nằm ven biển, người dân quanh năm mưu sinh bằng nghề bắt tôm, ốc dưới đáy biển. 

Đọc E-paper

Sống dưới đáy đại dương

Dù biết nghề lặn biển luôn đối mặt với nhiều tai nạn chết người nhưng người dân trong làng đều phải theo vì đây là nguồn sống duy nhất. Ông Trần Đình Huế, 55 tuổi, có hơn 30 năm sống bằng nghề lặn mò ốc, trở thành "thầy lặn" trong làng, nói: "Nghề lặn rất nguy hiểm, không phải cứ ngậm ống ôxi là lao xuống đáy biển được. Tôi dạy cho thanh niên chủ yếu là cách phát hiện luồng nước dữ, giữ nhiệt trong cơ thể, hoặc lặn lâu mà không bị nhức xương".

Ông Huế chỉ tay vào bình khí kể: "Ngày xưa, bọn tôi lặn biển không có bình ôxi, nên xuống vài phút là phải nổi lên và chỉ lặn ở độ sâu 4 - 5m. Giờ thanh niên trong làng chế được bình gas thành bình ôxi, nên chỉ cần nắm vững các bài học cơ bản là có thể tự tin sống dưới đáy biển cả ngày, với độ sâu lên đến 20 - 25m".

Ông Trần Đình Huế dù đã lớn tuổi nhưng vẫn theo con ra khơi lặn tìm ốc kiếm sống

Một trong những học trò giỏi của thầy Huế là anh Phan Vọng, 30 tuổi, khoe: "Mình học lặn từ thầy Huế năm 14 tuổi. Nên giờ có thể sống dưới biển với độ sâu 20 - 25m cả ngày, khi nào đói lên ăn cơm, nhưng sức khỏe vẫn đảm bảo".

Theo anh Vọng, muốn được như vậy phải trải qua quá trình tập luyện bền bỉ và gian khổ: "Lúc đầu, nghe nói lặn độ sâu 6 - 7m đã thấy sợ. Nhưng muốn có cái ăn thì không còn đường nào khác là phải học lặn. Thầy luôn bảo, tập luyện kỹ sẽ giúp mình sống được với nguyên tắc là trên sông đổ mồ hôi thì dưới biển bớt đổ máu".

Vừa nói anh xoay người chỉ về khúc sông: "Lúc đầu mình học lặn chay (không bình ôxi) cho đến khi làm chủ được con nước mới dùng bình ôxi và lặn ở độ sâu chừng 2 - 3m. Thời gian đầu chỉ lặn chỉ được 8 - 10 phút, vì tức ngực và khó chịu lắm! Khoảng một tháng sau mới bắt đầu đi lại được dưới đáy sông".

Thế nhưng, theo anh kể, khi ra biển, chỉ lặn ở độ sâu 10m được 10 phút lại phải nổi lên vì nhức xương và trào máu mũi. "Thầy liền dạy cho mình cách xì hơi tai. Tức là khi nhảy xuống biển mình chỉ cần nín thở và đẩy hơi trong cơ thể ra khỏi tai. Khi làm theo phương pháp này mình đi lại dưới biển cả ngày. Từ đó thời gian sống dưới đáy đại dương nhiều hơn trên mặt nước", anh Vọng tự hào nói.

Tuy nhiên, khi được hỏi về tương lai của nghề lặn biển, anh Trần Đình Thuận, 28 tuổi, có 15 năm làm nghề lặn biển, thở dài: "Cái nghề này hỏi làm chi chú ơi, cực nhọc và sống chết luôn treo lơ lửng trên đầu...".

Anh Thuận xăn tay áo, chỉ vào vết kim tiêm trên cánh tay, kể: "Cách đây hai tuần, tôi và ba bạn thuyền ra biển, vừa xuống độ sâu 20m thì thấy nhức xương và máu mũi trào ra. Tôi liền ngoi lên khỏi mặt nước, lên được thuyền nhưng chân tay tê cứng. Mấy anh tính đưa tôi vào bờ, nhưng tiếc công và tiền xăng bỏ ra khơi nên tôi liều ở lại. Thấy anh em ngụp lặn cực quá, tôi không ngồi yên được và tiếp tục buộc chì nhảy xuống biển. Nhưng hai tiếng sau, tôi bị đau lại, lần này, kịp nổi lên mặt nước nhưng miệng và người không cử động được! Mọi người hốt hoảng chở tôi vào bờ".

Tưởng lần đó, anh Thuận sẽ bỏ nghề lặn biển, nhưng vì phải kiếm gạo nuôi vợ và một đứa con nhỏ nên anh lại ra biển.

Anh Thuận còn kể, đầu năm 2012, cả làng đi biển gặp nước độc. Hơn 20 chiếc thuyền, có trên 100 người ra biển trúng độc, chân tay tê cứng và nhức xương phải đi cấp cứu tại trạm xá.

Nên người dân ở đây sợ nhất là lặn biển gặp nước độc. Luồng nước này thường xuất hiện vào tháng 5, nếu thợ nào lặn trúng luồng chính của nước độc thì nguy cơ bị bại liệt hoặc tử vong rất cao.

Ông Nguyễn Văn Hòa cho biết, trước đây, người dân chủ yếu lặn tìm sắt từ những con tàu đắm để bán, từ năm 2000, thương lái ở Nha Trang săn tôm hùm giống nên hầu hết chuyển sang nghề lặn tôm hùm. Hơn nữa, tôm hùm giống có giá từ 200 - 300.000 đồng/con. Nếu thuyền nào gặp may mỗi ngày kiếm được 10 - 15 triệu đồng.

Tuy nhiên, mùa lặn tôm hùm chỉ kéo dài từ tháng 6 đến tháng 10 âm lịch nên việc lặn tôm hùm không thường xuyên khiến cuộc sống người dân còn nhiều bấp bênh.

Từng gặp nạn trên biển, anh Nguyễn Văn Sơn vẫn có cảm giác lạnh dọc sống lưng khi nhớ lại chuyện thoát chết. Anh kể: "Đó là vào tháng 1/2013, tôi và bốn bạn thuyền ra biển lặn bắt tôm hùm. Lúc tôi lặn ở độ sâu 20m thì bỗng dưng thấy nhức xương nhưng vẫn cố gắng không nổi lên mặt nước. Một tiếng đồng hồ sau, máu trong mũi trào ra, tay chân cứng đờ, khiến tôi không đủ sức để tháo chì cho người nổi lên mặt nước. Tôi liền nhả vòi ôxi lấy miệng tháo sợi dây buộc chì, đạp cho người nổi lên và kêu cứu. Người tôi cứng đờ rồi lịm đi".

Ông Nguyễn Tài (bố Sơn) ngồi bên cạnh tiếp: "Lúc người ta chở về, nó vẫn bất tỉnh, da xanh, miệng sùi bọt mép, tôi liền thuê xe đưa nó vào thẳng Bệnh viện Trung ương Huế. Lúc nhập viện, bác sĩ bảo nguy cơ sống sót chỉ 10%. Nghe vậy tôi chết lặng. Mẹ nó thì khóc thét giữa bệnh viện. May mắn sau hai tháng, nó dần hồi phục, giờ sức khỏe đã đỡ hơn nhưng chân vẫn còn bị tê và đi lại khó khăn".

Nhắc đến chuyện đi biển, anh Sơn buồn nói: "Tôi cũng muốn rời quê kiếm nghề khác làm cho đỡ khổ và giữ được cái mạng, nhưng vướng vợ con nên chắc tiếp tục lặn để kiếm gạo thôi".

Một đời lặn biển

Ông Nguyễn Ngọc Chinh - trưởng thôn Phú Hải 1 cho biết, toàn thôn có 225 hộ với 880 nhân khẩu. Đất nông nghiệp ít, nên hầu hết người dân sống bằng nghề lặn biển.

Hiện toàn thôn có trên 20 thuyền nhỏ và gần 200 người thường xuyên lặn biển. Sở dĩ người dân nơi đây chọn nghề lặn nhiều là do không có kinh phí đóng thuyền lớn để ra khơi đánh bắt cá, chỉ sắm những chiếc ghe nhỏ để kiếm sống, từ đó sinh ra nghề lặn biển.

Ông Trần Đình Lý, 55 tuổi, ứa nước mắt khi nhắc đến chuyện ba người con đều theo nghiệp bố. Ông thở dài: "Buốn lắm chú ạ, làm cha mà chẳng tìm được nghề nào tốt cho con. Ai cũng biết nghề lặn bắt tôm hùm, bắt ốc bạc lắm, lại luôn phải đối mặt với bệnh tật, nhưng sống giữa vùng cát này biết làm gì ra tiền, nếu không ra biển".

Ông Trần Đình Lý lặn bắt tôm hùm gần cửa biển Chân Mây

Theo ông, ba cha con mỗi lần ra khơi may mắn chỉ kiếm được từ 3 - 5 triệu đồng, có khi vài trăm ngàn đồng, nhưng không phải ngày nào cũng đi. Ông chỉ tay lên mái đầu bạc trắng: "Nghề này nó rút ngắn tuổi thọ con người đến vài chục năm. Tôi năm nay mới 50 tuổi mà già khụm, râu tóc bạc phơ. Tôi nhớ cách đây chừng mười năm, gần tạ gạo trên vai mang chạy được, nhưng giờ thì chịu, sức lực kiệt rồi. Cũng vì nghề bán sức nên làng này có mấy người lặn biển sống thọ đâu".

Cùng cảnh ngộ, ông Nguyễn Thạch, 52 tuổi, hằng ngày vẫn cùng năm đứa con ra biển. Đối với ông mỗi lần ra biển là đầy rủi ro, nhưng phải chấp nhận.

Ông Thạch nói: "Cách đây hai năm, tôi quyết không cho đứa út theo nghề lặn biển, nên dạy cho nó cách bủa lưới gần bờ. Nhưng giờ cá tôm trong bờ khan hiếm, làm không đủ ăn. Thấy vợ con xanh xao vì đói nó lại phải học nghề lặn, giờ tôi và năm đứa con đều theo nghề này".

Theo ông Thạch, mỗi năm, nghề lặn biển chỉ hoạt động thường xuyên chừng 5 tháng (từ tháng 6 đến tháng 10 âm lịch), nên thu nhập bấp bênh. Chính vì thế, không chỉ đàn ông lặn biển mà bà Nguyễn Thị Vòm, 50 tuổi cũng phải học nghề lặn. 

Bà Vòm cho biết, ngày xưa, đàn ông lặn biển, đàn bà đi bủa lưới ở cửa cảng Chân Mây, nhưng từ khi cảng Chân Mây cấm người dân đánh bắt cá khiến cuộc sống thêm khó khăn.

"Huyện, tỉnh về nói chúng tôi dừng đánh bắt cá để tàu hàng ra vào cảng được an toàn, đổi lại người dân sẽ được tỉnh giải quyết việc làm ở cảng Chân Mây và một số nơi khác. Nghe vậy dân chúng tôi mừng và đồng ý ngay. Nhưng lời nói gió bay, hơn năm qua, con tôi và nhiều người dân nộp hồ sơ, xin vào nhặt rác trong cảng cũng chẳng ai nhận. Tôi giờ 50 tuổi cũng phải học lặn, theo con ra khơi tìm tôm, ốc nuôi thân...".

>Phận người hấp cá

>An Giang không mùa nước

>Đàn Viên: Làng đèn trước gió

>Du mục trên quê hương mình

HỒ NGỌC MINH