Nên giảm thuế giá trị gia tăng trong gói hỗ trợ lần hai

Pháp luật - Ngày đăng : 01:00, 01/09/2020

Dịch bệnh Covid-19 đang tác động tiêu cực lên nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp. Mặc dù Chính phủ đã đưa ra nhiều biện pháp kích thích kinh tế trong gói hỗ trợ đầu tiên nhưng công cuộc phục hồi, phát triển kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn.

Trong gói hỗ trợ đầu tiên, Chính phủ đã sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, bao gồm hỗ trợ an sinh, vay vốn ngân hàng với lãi suất thấp, vay vốn ưu đãi trả lương người lao động, giảm và giãn thời hạn nộp bảo hiểm xã hội, gia tăng giải ngân đầu tư công, giãn nộp thuế và tiền thuê đất 5 tháng, đồng thời giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp và giảm thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập cá nhân phải nộp trong năm 2020.

Mặc dù các biện pháp hỗ trợ cho hầu hết lĩnh vực và hy vọng có nhiều tác động tích cực, nhưng thực tế nhiều doanh nghiệp vẫn cho rằng chưa tiếp cận được và khó khăn vẫn là chủ yếu. Thời gian qua, số lượng doanh nghiệp ngừng sản xuất, giải thể, đóng cửa đang tăng lên. Người bị mất việc làm ngày càng lớn, tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế, xã hội. Do đó, các chuyên gia kinh tế cho rằng, đã đến lúc Việt Nam đưa ra gói hỗ trợ lần thứ hai.

23232232-1524-1598580733.jpg

Đánh giá về các chính sách thuế trong gói hỗ trợ đầu tiên, nhận thấy việc hỗ trợ thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất tác động không nhiều đến cộng đồng doanh nghiệp. Bởi vì đối với doanh nghiệp, tiền thuê đất hầu hết ảnh hưởng tới doanh nghiệp bất động sản, thuế thu nhập cá nhân chỉ tác động đến người lao động, còn thuế thu nhập doanh nghiệp thì chỉ phát sinh đối với doanh nghiệp có doanh thu, lợi nhuận. Trong khi hầu hết doanh nghiệp đang ngụp lặn trong khó khăn.

Chính vì vậy, theo chúng tôi, gói hỗ trợ lần hai cần xem xét đến các tác động thực chất hơn, tức là chính sách hỗ trợ thuế phải xem xét đến phạm vi tác động và đối tượng tác động. Để làm được yêu cầu này, hỗ trợ thuế giá trị gia tăng (GTGT) phải nộp là vấn đề cần xem xét, với các lý do sau đây:

Một là, thuế GTGT là thuế gián thu đánh trên hàng hóa tiêu dùng trong xã hội. Đối tượng thuế gián thu là tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ do đó phạm vi tác động là rất lớn. Khi giảm thuế GTGT thì hầu hết đối tượng đều có lợi: doanh nghiệp bán được hàng do giảm giá bán, còn người tiêu dùng được lợi do mua hàng với giá thanh toán thấp hơn trước.

Hai là, khác với thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp khi có phát sinh lợi nhuận, thuế GTGT phát sinh ngay khi có tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Điều đó có nghĩa là thuế GTGT là nghĩa vụ bắt buộc với tất cả đơn vị cung cấp, bán hàng. Khi giảm thuế GTGT thì tác động không chỉ với doanh nghiệp có lãi mà tới cả các doanh nghiệp bị lỗ. Điều đó đảm bảo nguyên tắc công bằng của chính sách hỗ trợ, tới tất cả đối tượng trong xã hội.

Ba là, xét về nghiệp vụ thuế, thuế GTGT chỉ phát sinh khi doanh nghiệp có phát hành hóa đơn hợp pháp. Như vậy, hỗ trợ thuế GTGT cũng là việc đề cao tính tự giác, trung thực của người nộp thuế. Hơn thế nữa, việc hỗ trợ thuế GTGT sẽ hoàn toàn thực chất khi chỉ áp dụng với doanh nghiệp thực hiện đúng và đầy đủ yêu cầu về hóa đơn và kê khai thuế theo quy định. Điều này làm giảm nguy cơ ẩn lậu thuế và lạm dụng chính sách hỗ trợ của các doanh nghiệp làm ăn không chân chính.

Với các phân tích trên, chúng tôi đề xuất gói hỗ trợ thứ hai nên xem xét “giảm thuế GTGT phải nộp trong kỳ của các doanh nghiệp”. Tuy nhiên, việc áp dụng giảm thuế GTGT một cách đại trà tiềm ẩn khả năng gây thất thoát ngân sách thông qua các hình thức nhập lậu hay gian dối trong kê khai thuế... Do đó, vai trò của công tác kiểm tra thuế là rất lớn, nhằm đảm bảo chính sách thuế thực hiện được minh bạch, công bằng, tác động đúng đến đối tượng khó khăn, cần được hỗ trợ.

LS. Nguyễn Đức Nghĩa