Trăm năm tơ lụa dưới tay người
Đời thường - Ngày đăng : 07:00, 05/02/2022
![]() |
Hoang hoải tơ tằm
Nhắc đến tơ lụa Mã Châu ở TT. Nam Phước (huyện Duy Xuyên, Quảng Nam), ông Trần Hữu Phương - Giám đốc Công ty TNHH Tơ lụa Mã Châu mắt sáng bừng như chạm đúng nỗi niềm. Bởi hơn ai hết, ông là người gắn bó và chứng kiến, cũng như trải qua nhiều thăng trầm nhất của làng dệt cho tới tận bây giờ. Ông là hậu duệ 18 đời của người dệt lụa Mã Châu. Và đã vực dậy lụa Mã Châu ngày nay.
18 đời trong gia đình ông dệt lụa, ướm chừng cũng mấy trăm năm. Trong trí nhớ của ông Phương thì làng lụa Mã Châu là cái tên mà hơn gần 400 năm về trước ai cũng biết tới. Bên dòng sông Thu Bồn hiền hòa này, đồng đất rất hợp với cây dâu tằm. Và người làng thủa khai khẩn nơi đây, sinh tụ cùng với người Chăm ở Kinh đô Trà Kiệu này đã cùng tạo nên một thương hiệu lụa nổi tiếng thời bấy giờ. Lụa Mã Châu đã nổi tiếng khắp đàng trong đàng ngoài, theo chân các thương thuyền Trung Quốc, Nhật Bản từ thương cảng Hội An đi khắp các vùng biển.
Trong mạch ngầm trí nhớ, ông Phương như mường tượng ra cảnh người làng từ già đến trẻ, người trồng dâu, người chăm tằm, người se sợi, người nhuộm lụa... tiếng gọi, tiếng cười, tiếng mua bán giăng kín cả làng lụa này. Ký ức ấy, ông chưa bao giờ một lần dám quên. "Ngày xưa, ở đây là một làng nghề rất trù phú. Gần 100% người dân đều sống bằng nghề trồng dâu nuôi tằm và ươm tơ dệt lụa. Thuyền buôn của các nước vào tới tận đây để trao đổi hàng hóa với làng nghề của chúng tôi. Cách đây hơn 400 năm trở về trước, chỉ có người dân làm nghề tơ lụa mới giàu có nhất vùng này thôi!", như niềm tự hào với tiền nhân, ông Phương nhấp ngụm trà đặc và kết lại một câu như thế. Chỉ chừng đó thôi, đủ thấy thời đỉnh cao của làng nghề dệt lụa này đã huy hoàng đến mức nào.
![]() |
Nhưng rồi thời cuộc, chiến tranh, kinh tế thị trường... tất cả vùi những kỷ niệm hoàng kim ấy xuống dưới cơm áo gạo tiền. Làng lụa Mã Châu cứ thế lụi dần, tàn dần. Những nương dâu không người chăm bón nữa, người dân chuyển sang trồng nhiều loại ngũ cốc khác. Nhiều khung cửi bị bỏ phế, mối mọt hư hỏng. Người làng cái tay không còn quen đưa thoi, bàn chân không còn quen dập, con mắt không còn quen nhìn màu nhuộm nữa.
Khơi vực từ những lụi tàn
Những năm 1990, ông Phương vào TP.HCM với hy vọng có thể sống được ở đất đô thành. Nhưng là người của làng lụa, làng dệt, làm sao ông có thể quên được quê hương cố xứ nơi mình sinh ra, nơi mà tăm tiếng lẫy lừng của làng dệt đã được khẳng định hàng trăm năm. Những năm tháng ở phương Nam, lúc nào ông cũng đau đáu một nỗi niềm cho làng nghề. Ngày giỗ tổ ở làng lụa, cha ông nắm lấy tay người con trai đang tha phương mà thều thào, rằng hãy về lại quê nhà trồng lại điền dâu, cùng mọi người dựng lại làng lụa. Đó là tâm nguyện cuối cùng của cha ông, một người thợ dệt cả đời chưa từng quên khung cửi. Và ông Phương tìm tới ông Trần Hữu Diện từng là nghệ nhân dệt rất nổi tiếng ở Mã Châu khi ấy cũng đang ở TP.HCM. Để rồi, cả hai dắt díu nhau về đồng đất quê nhà.
Người làng bán tín bán nghi, ngay cả người trong họ tộc cũng không tin ông Phương có thể gầy dựng lại được nghề dệt lụa huy hoàng như thủa trước. Nhưng ông Phương đã thề: "Dù có chết tôi cũng xin chết như một con tằm bên gốc dâu Thu Bồn!". Rồi cứ thế, ông Phương và ông Diện người trồng dâu, người đi tìm mua lại khung cửi. Đi tìm mua khắp trong vùng, vào tận phía Nam để tìm mua. Người Mã Châu ở phương Nam cũng nghi hoặc, nhưng rồi khi họ thấy điền dâu tốt tươi, tằm tơ óng mượt, chỉ có khung cửi vắng tay người đưa thoi. Thế là họ kéo nhau về, làng Mã Châu ngày ấy vui như hội khi đón những đứa con dệt lụa trở về từ phương xa.
![]() |
"Nói thì tưởng chừng dễ, nhưng những ngày đó tôi và anh Diện, cùng một số người trong làng phải vật lộn giữa việc khôi phục làng nghề với chén cơm manh áo. Thời điểm ấy, hầu như cả Mã Châu chỉ còn một vài người bám trụ nghề cũ. Tôi cùng mọi người phải sửa chữa khung dệt, đưa thêm kỹ thuật hiện đại vào để tăng năng suất, rồi cầm cố gia sản để lấy tiền trả chi phí, công cán!", kể về những ngày tháng cam go nhất ấy, mắt ông Phương như ngân ngấn nước.
Ngay cả hai cô con gái của ông, khi thấy ông chong đèn bên khung cửi, tiếng lách cách của khung dệt vọng vào đêm như át cả tiếng côn trùng rỉ rả, hai cô con gái như chảy cùng nhiệt huyết của cha mình. Cô con gái đầu khi ấy đang là nhân viên ngân hàng cũng xin nghỉ việc về phụ với ông, cô con gái thứ hai sau khi tốt nghiệp Đại học Khoa học Huế cũng về với làng lụa. Bằng kiến thức, bằng sức trẻ, vận dụng những cách thức thương mại hiện đại, hai cô con gái đã góp phần đưa lụa Mã Châu đến với người tiêu dùng nhiều hơn.
Hợp tác xã dệt lụa Mã Châu, mà sau này đổi tên thành công ty do ông Phương đứng tên đã có sức sống trở lại. Cơ sở của ông trồng dâu, dệt lụa, hai cô con gái của ông tìm kiếm thị trường, tiếp cận khách hàng. Sản phẩm lụa Mã Châu cứ thế từng bước hồi sinh thần kỳ giữa gian khó chập chùng. Khi Việt Nam mở cửa, hội nhập sâu rộng với quốc tế, khách quốc tế đến Việt Nam nhiều hơn, lụa Mã Châu làm ra được khách hàng trong nước lẫn du khách quốc tế rất yêu thích và họ thực sự sửng sốt trước lịch sử cũng như sự vực dậy thần kỳ của một làng nghề tưởng chừng đã lụi tàn vĩnh viễn.
Ngày Mã Châu hồi sinh trở lại, có người đến đặt vấn đề hợp tác với ông. Nhưng ông lắc đầu. Ông hiểu, có thể Mã Châu sẽ phát triển hơn nữa, nhưng sẽ buộc phải đánh đổi. Điều ông lo nhất là lụa Mã Châu sẽ bị lạm dụng, sẽ bị trộn lẫn với những loại lụa kém chất lượng khác. Khi ấy, lụa Mã Châu vang tiếng một thời sẽ bị ảnh hưởng, hồn cốt của Mã Châu gần 400 năm qua không thể nào bị "ô bẩn" dưới tay ông được. Chính vì thế, đến tận bây giờ, dù còn nhiều khó khăn để trở về thời hoàng kim ngày trước, nhưng ít ra ông Phương đã làm được điều cha ông nhắn nhủ, làm được điều ông ấp ủ hơn 20 năm qua, đó là sống lại lụa Mã Châu nổi tiếng một thời.