Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN và thế giới
Hội - Câu lạc bộ - Ngày đăng : 08:41, 07/03/2022
Kinh tế tư nhân Việt Nam có bề dày lịch sử gắn liền với quá trình lịch sử của dân tộc. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI (1986) gần 36 năm qua, vấn đề thành phần kinh tế tư nhân được xem là một nhu cầu quan trọng đối với Việt Nam. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng đúng đắn quan điểm của Lênin về kinh tế nhiều thành phần. Kinh tế tư nhân đã hình thành và phát triển thành một lực lượng kinh tế góp phần không nhỏ đối với kinh tế Việt Nam nói riêng và kinh tế chính trị toàn cầu nói chung.
Cốt lõi của chiến lược kinh tế Việt Nam là hội nhập nhanh chóng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, với danh mục hàng hóa xuất khẩu đa dạng và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cách tiếp cận kinh tế cởi mở của Việt Nam chính là sự kết hợp giữa tăng trưởng nông nghiệp trong nước cùng với vai trò quan trọng của các doanh nghiệp nhà nước đồng thời khuyến khích sự tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân.
Những kết quả kinh tế đã đạt được trong tiến trình đổi mới của Việt Nam đã chứng tỏ tính đúng đắn của đường lối phát triển kinh tế thị trường trên cơ sở nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế tư nhân là một bộ phận quan trọng không thể tách rời khỏi nền kinh tế. Bài viết nhằm khắc hoạ những nét cơ bản của kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực Đông Nam Á và thế giới hôm nay và tương lai.
1. Kinh tế tư nhân Việt Nam từ năm 1986 đến nay
Năm 1945, sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, thành phần kinh tế tư nhân đã tồn tại. Trong tác phẩm Thường thức chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết về các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân, Người viết: "Kinh tế tư bản của tư nhân. Họ bóc lột công nhân, nhưng đồng thời họ cũng góp phần vào xây dựng kinh tế" (Trần Đình Thiên, 2020, tr.45).
Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định đất nước đang bước vào giai đoạn đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế Việt Nam tồn tại nhiều thành phần kinh tế: (1) Kinh tế xã hội chủ nghĩa (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể); (2) Các thành phần kinh tế khác (kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và dịch vụ cá thể); (3) Chủ nghĩa tư bản tư nhân, chủ nghĩa tư bản nhà nước (công tư hợp doanh) và kinh tế tư nhân, tự cấp, tự túc của một số khu vực dân tộc thiểu số. Đại hội VI đã xem xét một cách căn bản vấn đề cải tạo xã hội chủ nghĩa và đã đưa ra quan điểm mới về nền kinh tế nhiều thành phần:
"Đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn vốn tích lũy tập trung của Nhà nước và tranh thủ vốn nước ngoài, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác" (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1987, tr.42).
Đại hội VI đã “xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp của Nhà nước" và chuyển sang nền kinh tế "nhiều thành phần, định hướng thị trường xã hội chủ nghĩa", trong đó có vai trò của khu vực tư nhân, đã được thông qua. Một số thay đổi trong khuôn khổ pháp lý cho khu vực tư nhân đã diễn ra trong nửa đầu những năm 1990.
Năm 1990, Luật Doanh nghiệp tư nhân đã thiết lập cơ sở pháp lý cho việc thành lập các doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty mở ra cho các công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân đã sớm được nhà nước chính thức công nhận. Năm 1993, Luật Phá sản được thông qua và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước cho phép các nhà đầu tư tiếp cận với một số ưu đãi dành cho người nước ngoài được ban hành vào năm sau.
Năm 1986, một đất nước Việt Nam nghèo khó, bên bờ vực khủng hoảng kinh tế, bắt tay vào con đường đổi mới kinh tế đổi mới. Đó là một sự thừa nhận rõ ràng rằng những cải cách "phá rào" của thập kỷ trước - được khởi xướng một cách có cơ hội để kiểm tra các giới hạn của kế hoạch hóa tập trung - đã cho thấy nhiều hứa hẹn và tình hình đã đủ nghiêm trọng để đòi hỏi một cách tiếp cận có hệ thống hơn.
Lạm phát hằng năm ở mức hơn 400% (Rama 2014), nền kinh tế thực tế đang đi xuống và phụ thuộc nhiều vào viện trợ nước ngoài (Tran 2015), thực phẩm thiếu hụt, ngân sách thường xuyên thiếu hụt (Vu, David, Nguyen & Do, 2015) và phần lớn dân số nghèo. Trong chính sách đổi mới, khu vực kinh tế tư nhân chính thức được công nhận là một bộ phận của sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và của nền kinh tế nhiều thành phần.
Năm 1986, chính sách đổi mới đã mang lại cho Việt Nam một hướng đi mới. Các cải cách kinh tế đã đưa đất nước ra khỏi nền kinh tế tập trung và chuyển sang con đường nền kinh tế thị trường tự do hóa và mở với mức đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng cao. Những tác động trực tiếp của cải cách kinh tế đã nâng GDP của Việt Nam lên 42% vào năm 1998 (Nghiep L T, Quy L H. 2000, 317-332). Khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam được mở rộng dần với sự tham gia của các doanh nghiệp tư nhân nước ngoài khi Luật Đầu tư nước ngoài đầu tiên được thông qua vào năm 1987.
Năm 1990, các công ty và doanh nghiệp khu vực tư nhân lần đầu tiên được công nhận với sự ra đời của Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân. Hai luật đã cung cấp nền tảng pháp lý rất cần thiết cho việc thành lập các doanh nghiệp tư nhân đầu tiên ở Việt Nam. Tuy nhiên, các yêu cầu gia nhập thị trường theo hai luật này vẫn còn rất tốn kém và khó khăn.
Luật Doanh nghiệp được ban hành vào năm 1999 đã tạo ra một sự bùng nổ trong sự phát triển của các doanh nghiệp chính thức thuộc khu vực tư nhân trong nước. Luật đã tự do hóa quyền tự do kinh doanh của công dân Việt Nam và bảo vệ chính thức các doanh nghiệp tư nhân và quyền sở hữu tư nhân của các doanh nghiệp. Luật đã đưa ra những cải cách chưa từng có về môi trường kinh doanh, những cải tiến to lớn về thủ tục khởi sự kinh doanh, loại bỏ vô số rào cản gia nhập doanh nghiệp và thúc đẩy sự thay đổi tư duy của các cơ quan chính phủ, bộ ngành, chính quyền địa phương đối với doanh nghiệp khu vực tư nhân. Ngay sau khi luật được ban hành, số lượng doanh nghiệp đăng ký hằng năm đã tăng lên đáng kể.
Hàng tỷ USD đã được các doanh nhân Việt Nam đầu tư vào nền kinh tế thông qua các doanh nghiệp đăng ký theo Luật Doanh nghiệp. Từ năm 1999, khuôn khổ pháp lý cho khu vực kinh tế tư nhân liên tục được hoàn thiện. Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư đã được sửa đổi vào năm 2004 bằng cách kết hợp các luật khác nhau áp dụng cho các nhà đầu tư và doanh nhân trong nước, nước ngoài và nhà nước. Khung pháp lý chung áp dụng cho tất cả các nhà đầu tư, không phân biệt thành phần sở hữu, đã trở thành hiện thực vào năm 2005. Đây là một phần trong quá trình Việt Nam chuẩn bị cho việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007. Năm 2014, Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư đã được sửa đổi thêm với những cải cách mới được đưa ra.
Năm 2017, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII đã được ban hành, khẳng định sự cần thiết phải thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân trở thành động lực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Đây là một dấu mốc quan trọng cho thấy các doanh nghiệp tư nhân đã trải qua quá trình tăng trưởng đầy biến động tại Việt Nam trong thời gian qua. Nghị quyết đã đặt mục tiêu phát triển bền vững khu vực kinh tế tư nhân, trong đó chú trọng phát triển chất lượng, hiệu quả và hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân.
Kể từ những năm 1990, những cải cách kinh tế tiếp tục đã tạo ra mức tăng trưởng bao trùm đáng kể, mang lại lợi ích cho tất cả lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội Việt Nam (World Bank, 2018). Một tuyên bố vào năm 2014 của EU cho rằng "khu vực kinh tế tư nhân có thể là động cơ tăng trưởng toàn diện bằng cách tạo ra việc làm tốt, đóng góp doanh thu công và cung cấp hàng hóa và dịch vụ giá cả phải chăng" (EU Commission, 2014).
Tương tự, theo một đánh giá của một quan chức cấp cao của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) "khu vực kinh tế tư nhân không chỉ thúc đẩy tăng trưởng - mà còn thúc đẩy tăng trưởng toàn diện…" (Venkatachalam L., 2014). Ngoài ra, một đánh giá về sự phát triển của Trung Quốc đã kết luận rằng khu vực tư nhân không chỉ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế mà còn giúp đất nước đối phó với các tác động xã hội do sự suy giảm của ngành công nghiệp nhà nước (Hasan, I., Wachtel, P., & Zhou, M. 2009, tr.157-170).
Theo số liệu từ cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, tính đến ngày 31/12/2019 (trước đại dịch Covid-19), cả nước có 758.610 doanh nghiệp đang hoạt động (Department of Climate Change, 2020, tr.5). Phân theo khu vực kinh tế, tính đến ngày 31/12/2019, có 508.770 doanh nghiệp đang hoạt động (67,1%); 239.755 doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng (31,6%); và 10.085 doanh nghiệp trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản (1,3%). Điều này trái ngược với năm 2018, khi có 419.262 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ (68,7% tổng số doanh nghiệp cả nước); 184.531 doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng (30,2%); và 6.844 doanh nghiệp trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản (1,1%).
Phân theo loại hình doanh nghiệp, tính đến ngày 31/12/2018, cả nước có 2.260 doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động (chiếm 0,4% tổng số doanh nghiệp), trong đó có 1.097 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước (chiếm 0,2%); 591.499 doanh nghiệp là doanh nghiệp ngoài quốc doanh; và 16.878 doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), chiếm 2,7% số doanh nghiệp. Theo quy mô doanh nghiệp, khu vực doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ chiếm số lượng cao nhất. tính đến ngày 31/12/2018, cả nước có 382.444 doanh nghiệp siêu nhỏ, (62,6%); 189.879 doanh nghiệp nhỏ (31,1%); 21.306 doanh nghiệp quy mô vừa (3,5%); và 17.008 doanh nghiệp quy mô lớn, chỉ chiếm 2,8%.
Hiện nay, khu vực kinh tế tư nhân đã và đang đóng góp chính vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm gần đây. Năm 2016, khu vực kinh tế tư nhân trong nước chiếm 38,6% tổng sản phẩm quốc nội GDP, (doanh nghiệp đăng ký chính thức chiếm 8,2%, khu vực kinh doanh hộ gia đình chiếm 30,43%). Khu vực kinh tế tư nhân nước ngoài (doanh nghiệp FDI) chiếm 18,95% GDP. Khu vực kinh tế tư nhân là thành phần chính góp phần tạo ra việc làm, xóa đói giảm nghèo, cải thiện điều kiện sống và tăng trưởng đồng đều và bền vững ở Việt Nam.
Không tính các hộ gia đình, các doanh nghiệp tư nhân trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra 3,35 triệu việc làm mới trong giai đoạn 2010-2015, tương đương trung bình 557.000 việc làm mới mỗi năm (Le Duy Binh, 2018, tr.12). Trong vài thập kỷ gần đây, sự thay đổi trong tư duy của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã thể hiện qua nhiều nghị quyết và đề án chiến lược, đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
2. Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến trình hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và thế giới
Sau hơn 30 năm thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã đạt những thành tựu trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu kinh tế có sự đóng góp của kinh tế tư nhân. "Kinh tế tư nhân được khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển: huy động được nguồn lực lớn, tạo được nhiều việc làm cho người lao động; bước đầu hình thành một số doanh nghiệp tư nhân lớn, ngày càng thể hiện được vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế" (Hội đồng lý luận trung ương, 2020, tr.322).
Khu vực kinh tế tư nhân là một thành phần quan trọng trong việc giải quyết những thách thức phát triển thông qua những đóng góp của khu vực kinh tế này trong nhiều lĩnh vực, bao gồm tăng trưởng, việc làm, xóa đói giảm nghèo, cung cấp dịch vụ, an ninh lương thực, giảm thiểu biến đổi khí hậu, bảo đảm môi trường và đóng góp vào thuế (International Finance Corporation, 2011, tr.7). Kinh tế khu vực tư nhân không chỉ phát huy thế mạnh tại Việt Nam mà còn được các quốc gia ASEAN xem trọng và đánh giá cao.
Từ 1993, Indonesia thực hiện chính sách thu hút các luồng đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chủ yếu là liên doanh; mặt khác Indonesia cho phép tư nhân trong nước tự do kinh doanh trên cơ sở độc lập về nguồn vốn hoặc hình thành hệ thống công ty, cổ phần, liên doanh giữa nhà nước với tư nhân trong và ngoài nước (Dương Phú Hiệp, 1996, tr.181). Từ năm 1986, Philippines chủ trương tự do buôn bán và tư nhân hóa các công ty chính phủ làm ăn thua lỗ. Năm 1998, đã có 93 xí nghiệp quốc doanh tại Philippines được tư nhân hoá (Dương Phú Hiệp, 1996, tr.191). Ở Thái Lan, mặc dù chính quyền có lúc chuyển từ giới quân sự sang giới dân sự, nhưng đường lối kinh tế là nhất quán: phát triển kinh tế tư nhân theo cơ chế thị trường. Thái Lan là quốc gia dành nhiều ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài (Dương Phú Hiệp, 1996, tr.270-271).
Ngoài ra, tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương thì xu hướng đối với các cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị luôn tái diễn và sự thất bại chung trong việc thiết lập các mô hình tăng trưởng kinh tế nhất quán hoặc duy trì sức hút về nguồn vốn nước ngoài (Lê Đăng Doanh, 1996, tr.8-9; Katz, 1996, tr.15-16; Ngân hàng Thế giới, 1996a, tr.173). Từ cuối những năm 1980, Trung Quốc và Việt Nam đã trải qua giai đoạn mở rộng kinh tế nhanh chóng, thương mại quốc tế tăng trưởng ở mức cao và dòng vốn đầu tư nước ngoài quy mô lớn.
Việt Nam và Trung Quốc đều từ nền kinh tế với sở hữu công hữu "độc tôn" (kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể) chuyển sang nền kinh tế sở hữu nhiều thành phần, trong đó, chú trọng sở hữu tư nhân. Bên cạnh đó, sự phát triển và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao vị thế kinh tế cho phụ nữ, đặc biệt là thông qua cơ hội việc làm và nâng cao thu nhập.
Năm 2015, 46% việc làm trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp tham gia là phụ nữ. Một con số ước tính chỉ ra 25% doanh nghiệp ở Việt Nam do phụ nữ làm chủ hoặc lãnh đạo so với mức trung bình 8% ở Nam Á. Khoảng 5% CEO của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán quốc gia Việt Nam là phụ nữ. Xu hướng phụ nữ lãnh đạo trong khu vực tư nhân ngày càng gia tăng đã thúc đẩy sự xuất hiện ngày càng nhiều các hiệp hội doanh nghiệp nữ (Le Duy Binh, 2018, tr.13).
Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, Việt Nam đã ưu tiên hội nhập thương mại quốc tế trong đó có khu vực kinh tế tư nhân là một mục tiêu quan trọng với lợi ích chung là thiết lập một AEC hoạt động hiệu quả và hội nhập thế giới.
Bên cạnh đó, Việt Nam đang theo đuổi chiến lược tạo lập thị trường thương mại, tích cực tìm cách tham gia các hiệp định thương mại tự do ưu đãi với các thị trường kinh tế quan trọng ngoài khu vực ASEAN, chủ yếu là thị trường Liên minh châu Âu (EU) và Mỹ, có thể có tác động tạo ra động lực thương mại quan trọng cho các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân. Vì thế, Việt Nam sẽ tận dụng lợi thế của việc giảm thuế quan cả trong AEC, EU và Mỹ để thu hút các doanh nghiệp tư nhân xuất khẩu sản xuất tại Việt Nam và từ Việt Nam xuất khẩu sang các đối tác thương mại ngoài ASEAN.
Nói cách khác, Việt Nam muốn tạo ra các luồng thương mại mới và tập trung vào việc đảm bảo an ninh (kinh tế) của chính mình bằng cách tận dụng các hiệp định thương mại quốc tế và khu vực. Sau khi Mỹ rút khỏi TPP, với một Trung Quốc đang trỗi dậy trong khu vực, Việt Nam đã thể hiện vai trò trong việc cân bằng chiến lược kinh tế khi tham gia vào các hiệp định thương mại khác nhau.
Ngoài ra, Việt Nam với vai trò người điều phối hợp tác kinh tế ASEAN - EU, Việt Nam đã đóng góp tích cực vào thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại đặc biệt là thúc đẩy phát triển khu vực kinh tế tư nhân của cả hai bên đi vào chiều sâu và đạt hiệu quả. Việt Nam cũng đảm nhiệm tốt vai trò chủ trì đàm phán Hiệp định Thương mại dịch vụ trong khuôn khổ Hiệp định Đối tác toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP) và chủ tọa nhóm đầu tư, đại diện cho ASEAN trong đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
RCEP đã hoàn tất đánh dấu nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN năm 2020 thành công của Việt Nam, tạo đà cho kinh tế Việt Nam nhất là kinh tế tư nhân hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới, khu vực Đông Nam Á. Việt Nam sử dụng việc tham gia các hiệp định thương mại quốc tế như một công cụ để đảm bảo lợi ích và an ninh quốc gia thông qua việc tăng cường sức mạnh kinh tế trong đó có khu vực kinh tế tư nhân (Sophie Deprez, 2018, tr.33).
Cho đến nay, Việt Nam và Singapore là hai quốc gia thành viên ASEAN duy nhất có hiệp định thương mại tự do với hai thị trường xuất khẩu quan trọng nhất của họ (có sự khác biệt lớn trong phát triển kinh tế giữa Việt Nam và Singapore). Trên thực tế, tỷ lệ xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ trên GDP năm 2016 lên tới 93,6% đối với Việt Nam và 176,5% đối với Singapore. Quốc gia có mức xuất khẩu tính theo GDP cao thứ ba là Malaysia, với 70,9%.
Cùng với Singapore, Việt Nam là nền kinh tế hướng đến xuất khẩu nhiều nhất ASEAN (World Bank Trade Indicators). Tỷ lệ xuất khẩu trên GDP của Việt Nam liên tục tăng trong 5 năm qua, trái ngược với Singapore và Malaysia. Năm 2016, theo đánh giá của ngân hàng HSBC (The Hongkong and Shanghai Banking Corporation) khẳng định rằng: "Thương mại là động lực thúc đẩy tăng trưởng của Việt Nam… Ở khu vực châu Á, Việt Nam là một trong số ít quốc gia vẫn có lĩnh vực xuất khẩu sôi động trong bối cảnh nhu cầu toàn cầu chậm chạp" (HSBC, 2016, tr.1).
Việc Việt Nam tham gia các thể chế kinh tế khu vực của AEC như ATIGA, ACIA, ATISA, liên kết các ưu tiên, cũng như các hiệp định kinh tế song phương của ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc có những tác động đáng kể đến việc nâng cao năng lực cạnh tranh đồng thời nâng cao chất lượng các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ của Việt Nam (Nguyễn Văn Hà, 2018, tr.174).
Từ năm 2015, Việt Nam đã chủ động và tích cực tham gia vào tiến trình liên kết kinh tế ASEAN trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư, tài chính, tiền tệ… Hội đồng tư vấn kinh doanh ASEAN Việt Nam - ASEAN BAC Việt Nam hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam hội nhập khu vực ASEAN, gần đây nhất là thông qua triển khai dự án mạng lưới khởi nghiệp công nghệ số ASEAN 2020 (Đặng Cẩm Tú, 2021, tr.189). Dự án quan trọng này với mục đích tạo dựng một mạng lưới kinh tế số trong khu vực ASEAN nhằm thúc đẩy quá trình khởi nghiệp sáng tạo từ khu vực kinh tế tư nhân đồng thời thuận lợi hóa cho quá trình chuyển đổi số cho các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa vốn là các động lực phát triển kinh tế của cộng đồng kinh tế ASEAN (Ủy ban Quốc gia ASEAN 2020, tr.111).
Bên cạnh đó, việc tập trung thúc đẩy các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ là chủ đề được chọn cho năm 2020 của Hội đồng Doanh nghiệp các quốc gia Đông Á (EABC) sau khi Việt Nam được chuyển giao vai trò Chủ tịch từ đại diện Trung Quốc. EABC sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa (MSME) cùng các doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ tại các nước Đông Á trong đó có Việt Nam tiếp cận với nguồn vốn, thị trường quốc tế và tham gia thành công vào chuỗi giá trị toàn cầu thông qua sự hợp tác với các đối tác của EABC. Ngoài ra, EABC sẽ tối ưu hóa tiềm năng nguồn nhân lực, thúc đẩy khởi nghiệp và đổi mới dựa trên số hóa cho một tương lai kỹ thuật số bao trùm cho khu vực Đông Á.
Theo những khảo sát trong 5 năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam được thế giới biết đến qua những tên tuổi các tập đoàn tư nhân như: Vingroup, Sun Group, T&T Group, Thaco, Vietjet, TH True Milk, Masan... Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã đạt kim ngạch xuất khẩu hàng triệu USD, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng, thu ngân sách và giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh, xã hội. Thống kê cho thấy, 29 doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đã có giá trị vốn hóa trên thị trường chứng khoán vượt con số 1 tỷ USD (Nguyễn Quốc Điển, 2020). Qua đó có thể thấy, khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam là "tấm đệm giảm sốc" cho nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng và đang bị tác động bởi các yếu tố bất định như dịch Covid-19; sự biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn, mưa đá...
3. Kết luận
Vai trò của kinh tế tư nhân đã trở thành động lực phát triển kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới. Những cơ hội mới tiếp tục được mở ra cho Việt Nam khi hội nhập khu vực và quốc tế sâu rộng hơn, bao gồm cả việc thông qua Cộng đồng kinh tế ASEAN và CPTPP (Comprehensive and Progressive Agreement for the Trans-Pacific Partnership). Việt Nam sẽ thu được nhiều lợi ích từ hội nhập kinh tế thương mại quốc tế.
"Phương thức ASEAN -ASEAN Way" không ràng buộc đã tạo ra một cơ cấu kinh tế khu vực thông thoáng, cho phép các quốc gia ASEAN trong đó có Việt Nam phát triển các thành phần kinh tế, trong đó có khu vực kinh tế tư nhân với các ưu đãi phù hợp với chính sách kinh tế quốc tế đối với nền kinh tế đất nước. Đặc điểm của AEC Blueprint 2025 cung cấp cho Việt Nam khuôn khổ thuận tiện để tiếp tục kinh tế hướng ngoại và tham gia vào các thỏa thuận thương mại bên ngoài khu vực Đông Nam Á nhằm phát triển kinh tế tư nhân, trong khi vẫn được xem là một bên tích hợp và bảo vệ lợi ích của AEC.
Việt Nam đang ở một bước ngoặt trên con đường phát triển. Những cơ hội to lớn được đưa ra, cũng như những thách thức và khó khăn lớn đối với nền kinh tế của đất nước.
Trong tầm nhìn 2035, Việt Nam sẽ ở mức cao hơn mức thu nhập trên trung bình. Đó sẽ là một xã hội Việt Nam hiện đại, sáng tạo, bình đẳng, cởi mở và dân chủ cho mọi công dân. Tầm nhìn chiến lược này đã được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII năm 2021, đó là: "Phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân của người Việt Nam cả về số lượng, chất lượng, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế. Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế" (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, tr.240).
(*) Đại học Nguyễn Tất Thành