Đào tạo hơn 1.500 ngành, nghề đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp, xã hội
Đào tạo - Ngày đăng : 09:41, 26/04/2022
Mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp phát triển rộng khắp cả nước, đa dạng về loại hình và mô hình hoạt động, phân bố tương đối hợp lý ở các ngành kinh tế, địa phương, vùng, miền. Thực hiện theo tinh thần của Nghị quyết số 19-NQ/TW, giáo dục nghề nghiệp đã hình thành mạng lưới trường cao đẳng chất lượng cao, các ngành, nghề trọng điểm và tiếp cận trình độ khu vực và quốc tế theo đề án Chính phủ phê duyệt; hình thành và xây dựng một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp chuyên biệt để đào tạo cho nhóm đối tượng yếu thế (người khuyết tật, người dân tộc thiểu số…), đào tạo ngành, nghề phục vụ phát triển kinh tế biển và các nhóm đối tượng thuộc lĩnh vực văn hóa, thể dục thể thao.
Ngành nghề đào tạo trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp đa dạng, phong phú, đáp ứng mọi nhu cầu học nghề của thanh niên và yêu cầu của thị trường lao động. Theo danh mục đào tạo, hiện có 669 ngành, nghề trình độ cao đẳng và 897 ngành, nghề trình độ trung cấp, thuộc 65 nhóm ngành, nghề ở 23 lĩnh vực, bao phủ mọi lĩnh vực trong đời sống, kinh tế - xã hội của đất nước (từ kinh tế, xã hội; công nghệ kỹ thuật, dịch vụ, y tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng...).
Trong những năm gần đây, số thanh niên tham gia vào học nghề ngày càng tăng. Giai đoạn 2016-2020, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp (trường cao đẳng, trung cấp) tuyển sinh đạt 11.077 nghìn người (đạt 103% kế hoạch, tăng hơn 21% so với kết quả thực hiện giai đoạn 2011-2015), vượt kế hoạch được giao của giai đoạn 2016-2020, trong đó trình độ cao đẳng và trung cấp đạt 2.472 nghìn người, sơ cấp và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác đạt 8.605 nghìn người. Tốt nghiệp giáo dục nghề nghiệp đạt trên 10,2 triệu người (đạt 108% kế hoạch). Trong đó trình độ cao đẳng và trung cấp đạt trên 1.99 triệu người; sơ cấp và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác đạt trên 8,2 triệu người.
Số lượng tuyển sinh giai đoạn 2011-2020 đạt 19,67 triệu người, trong đó tuyển sinh trình độ cao đẳng đạt 1,945 triệu người (chiếm 9,8%), trình độ trung cấp đạt 2,3 triệu người (chiếm 11,86%); số người thuộc nhóm dân tộc thiểu số chiếm khoảng 7,5% và nữ chiếm 25,5%. Quy mô đào tạo tăng góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ của cả nước năm 2020 đạt 24,6%. Ngành, nghề đào tạo được mở dần, từng bước phù hợp với thực tế của doanh nghiệp và thị trường lao động ở từng địa phương, từng lĩnh vực.
Đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 được đẩy mạnh. Cả nước có trên 9 triệu lao động nông thôn được học nghề (đạt 91% kế hoạch), trong đó gần 5,2 triệu người được hỗ trợ đào tạo nghề theo chính sách của đề án, đạt 73,5% kế hoạch.
Các đối tượng yếu thế (người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người nghèo), phụ nữ nông thôn, bộ đội xuất ngũ… đã được quan tâm đào tạo nghề và giải quyết việc làm với các hình thức và mô hình phù hợp, bằng các chính sách thiết thực và hiệu quả.
Năm 2021, mặc dù gặp nhiều khó khăn do dịch Covid-19 bùng phát trở lại song các địa phương, cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã có nhiều nỗ lực trong công tác tuyển sinh. Tính đến ngày 31/12/2021, cả nước tuyển sinh được 1.915.548 người, đạt 85,14% kế hoạch (trình độ cao đẳng, trung cấp 375.108 người, đạt 65,81%; trình độ sơ cấp và các chương trình nghề nghiệp khác 1.540.440 người, đạt 91,69%).
Theo thống kê của Tổng Cục Giáo dục nghề nghiệp, chất lượng và hiệu quả giáo dục nghề nghiệp từng bước được nâng lên, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp và thị trường lao động. Kỹ năng nghề của người học được tăng cường, khoảng 80% người tốt nghiệp đã có việc làm phù hợp ngành nghề và trình độ đào tạo hoặc tự tạo việc làm, tham gia vào hầu hết lĩnh vực của nền kinh tế (tỷ lệ lao động nông thôn có việc làm sau đào tạo đạt 89,3%, vượt 9,3%).
Ở một số nghề (hàn, cơ điện tử, viễn thông, logistic, du lịch, dầu khí…), kỹ năng nghề của lao động Việt Nam đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và có thể đảm nhận nhiều vị trí công việc phức tạp mà trước đây phải do chuyên gia nước ngoài thực hiện.
Nguồn lực đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp tiếp tục được tăng cường và đa dạng hóa. Giai đoạn 2012-2019, ngân sách nhà nước chi cho giáo dục nghề nghiệp chiếm bình quân khoảng 8% chi thường xuyên ngân sách nhà nước cho lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề.
Ngân sách nhà nước ưu tiên đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa theo hướng tăng dần (từ 2017 đến nay định mức phân bổ chi sự nghiệp đào tạo và giáo dục nghề nghiệp, tùy theo từng vùng được điều chỉnh tăng bình quân 1,76 lần so với giai đoạn 2011-2016); đã huy động nguồn lực xã hội từ doanh nghiệp, các tổ chức cá nhân đầu tư phát triển giáo dục nghề nghiệp.