Doanh nghiệp và công nghệ trong thời đại công nghiệp 4.0
Công nghệ - Ngày đăng : 06:00, 13/07/2022
Xu hướng kinh tế
Việt Nam đã có quan hệ kinh tế song phương với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, quan hệ đa phương bao gồm 16 FTA với 60 nền kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thức rõ ba xu hướng kinh tế chính trong một thế giới có nhiều biến động.
Thứ nhất, xu hướng vừa hợp tác vừa cạnh tranh trong nền kinh tế thế giới vẫn không thay đổi. Chẳng hạn, mặc dù nền kinh tế Trung Quốc và Mỹ đang cạnh tranh gay gắt, song hai bên vẫn duy trì hợp tác. Trung Quốc và Mỹ là hai thị trường lớn nhất của Việt Nam, đòi hỏi doanh nghiệp (DN) trong nước phải khéo léo tìm ra lĩnh vực hợp tác phù hợp để không "mắc kẹt" trong thế cạnh tranh của hai nền kinh tế này.
Thứ hai, đó là yếu tố địa - chính trị trong kinh tế quốc tế thay đổi, đặc biệt là khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương khi xuất hiện sáng kiến IPEF (khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vì thịnh vượng) của Mỹ.
Yếu tố này tác động mạnh mẽ tới vấn đề vận chuyển hàng hóa và chuyển dịch chuỗi cung ứng. Đặc biệt, trong bối cảnh chiến tranh Nga và Ukraina làm tăng chi phí nhiên liệu vận tải, gián tiếp thúc đẩy hiện thực hóa kênh đào Kra tại Thái Lan, khi đó sẽ đem lại những cơ hội lớn cho DN Việt Nam, nhất là ở các tỉnh phía Nam.
Thứ ba, cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng 4.0) là quá trình tự động hóa sản xuất và công nghiệp truyền thống, sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI); giao tiếp giữa máy với máy và Internet vạn vật kết nối (IoT) được tích hợp để tăng cường tự động hóa, cải thiện giao tiếp và tự giám sát, đồng thời sản xuất máy móc thông minh để phân tích, chẩn đoán những tình huống phát sinh mà không cần sự can thiệp của con người. Cuộc cách mạng 4.0 nhằm đáp ứng ba yếu tố nâng cao năng lực của lĩnh vực sản xuất là tốc độ, quy mô và tối ưu hóa. Cũng có thể thấy sự khác biệt của cách mạng 4.0 là tác động cả ba lĩnh vực trong doanh nghiệp, đó là sản xuất công nghiệp, thương mại, tài chính - ngân hàng.
Tuy nhiên, theo số liệu thống kê, đầu tư vào giải pháp AI thì hiện nay Việt Nam cùng với Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines đều dưới mức 1 USD/đầu người, trong khi Singapore là 68 USD, Trung Quốc (năm 2019) là 21 USD và Mỹ đạt 155 USD trên đầu người. Điều đó đặt ra những thách thức cho DN Việt Nam vì cần phải đầu tư mạnh hơn nữa để tận dụng nền tảng kỹ thuật số trong sản xuất và phân phối hàng hóa, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước.
Mô hình chuỗi cung ứng truyền thống hàng nông sản |
Mô hình đề xuất chuỗi cung ứng thời đại 4.0 |
Doanh nghiệp và công nghệ trong thời đại 4.0
Trong một thế giới vừa hợp tác vừa cạnh tranh, điều kiện tiên quyết là phải nâng cao năng lực cốt lõi để sản xuất được hàng hóa và dịch vụ chất lượng tốt. Tuy nhiên, do sự biến động địa - chính trị và sự phát triển công nghệ số dẫn đến các sáng kiến hợp tác và cạnh tranh nhiều hơn ở lĩnh vực phi thuế quan, nhất là về chất lượng và tiêu chuẩn sản phẩm (cả kỹ thuật và xã hội). Sáng kiến IPEF là một một ví dụ. IPEF được thiết kế như một công cụ để tăng cường hợp tác giữa Mỹ và các đối tác ở châu Á.
Không giống như CPTPP và RCEP - hai khối thương mại lớn nhất châu Á, IPEF không đề cập tới việc giảm thuế. Thay vào đó, Mỹ tìm kiếm sự hợp tác trong việc chuyển dịch và phát triển các chuỗi cung ứng, thiết lập các tiêu chuẩn, quy tắc cho nền kinh tế kỹ thuật số đảm bảo vận hành hoàn hảo cho chuỗi giá trị sản phẩm từ khâu nguyên liệu cho tới người tiêu dùng. Hay nói cách khác, IPEF là một cơ chế mới nhằm tìm kiếm lợi ích từ quan hệ đối tác thương mại một cách bền vững, trên cơ sở các tiêu chuẩn và nguyên tắc kỹ thuật của sản phẩm và dịch vụ.
Trong quá trình thay đổi của thế giới, việc xây dựng mô hình quản lý mới chuỗi cung ứng và ứng dụng công nghệ số trong các lĩnh vực kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam đóng vai trò rất quan trọng, từ đó đi đến hạn chế rồi loại bỏ dần mô hình chuỗi cung ứng sản phẩm nông nghiệp truyền thống đơn giản từ hộ nông dân đến khâu trung gian, đại lý, bán buôn, bán lẻ và cuối cùng là người tiêu dùng.
Với sự phát triển của công nghệ số, mô hình mới có thể gộp các khâu trung gian, đại lý, bán buôn bằng việc thành lập các trung tâm tiếp thị, điều phối mà ở đó ứng dụng công nghệ số trong việc lựa chọn, phân loại theo tiêu chuẩn thị trường, đóng gói và bán buôn theo đòi hỏi ngày càng khắt khe và phức tạp của thị trường.
Công nghệ có thể được áp dụng là cảm biến để tương tác với nông dân về quản lý đất, nước, ánh sáng, độ ẩm, nhiệt độ; IoT, GPS kết nối và xác định vị trí; Big Data để dự báo khí hậu; robot trong kho vận và các phần mềm dự báo thị trường cũng như xu hướng nhu cầu người tiêu dùng. Có thể nói, các trung tâm điều phối thông minh này sẽ là nơi ứng dụng kỹ thuật số để quản lý chuỗi cung ứng ngày càng phức tạp, cũng như giá trị sản phẩm đảm bảo quy luật cung cầu theo nền kinh tế thị trường.
Một số đề xuất chính sách và chương trình trong xu hướng chuyển đổi số
Theo một nghiên cứu của công ty tư vấn Mỹ Kearney và EDBI của Singapore, công nghệ số nói chung và AI nói riêng có thể chuyển nền kinh tế khu vực ASEAN sang một nấc thang cao hơn. Nếu các thành viên ASEAN bắt kịp tốc độ áp dụng AI, có thể tăng thêm gần 1.000 tỷ USD (riêng Việt Nam trên 100 tỷ USD) vào tổng sản phẩm quốc nội của khu vực năm 2030.
Để được như vậy, cần phải xây dựng và thực thi 4 chính sách:
Thứ nhất, chính sách dữ liệu chung của quốc gia. Trong kỹ thuật công nghệ, tiêu chuẩn là ưu tiên số một, do đó cần xây dựng chính sách dữ liệu khu vực chung phù hợp với tiêu chuẩn và quy tắc chuyển đổi số của các nước công nghiệp phát triển.
Thứ hai, đào tạo kỹ năng kỹ thuật số. Bất kỳ giải pháp công nghệ nào cũng phải tính đến ảnh hưởng tới người lao động và đặt con người lên hàng đầu. Do đó, cần đào tạo kỹ năng kỹ thuật số cho lực lượng lao động.
Thứ ba, ứng dụng robot, IoT, AI, Big Data trong các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, ứng dụng E-commerce trong thương mại, ứng dụng Fintech (thanh toán điện tử trong tài chính - ngân hàng.
Thứ tư, an ninh mạng. Tăng cường hợp tác và nâng cao năng lực trong lĩnh vực an ninh mạng.