Phát triển bền vững nguồn lực tài chính
Trong nước - Ngày đăng : 04:20, 27/09/2022
TTTC Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, bảo đảm tốt chức năng cung ứng vốn cho nền kinh tế, hỗ trợ tăng trưởng cho khu vực doanh nghiệp (DN), đồng thời phục vụ hiệu quả tái cấu trúc nền kinh tế. Thống kê cho thấy, quy mô của thị trường vốn Việt Nam tăng trưởng bình quân 28,5%/năm giai đoạn 2016-2021. Tính đến cuối quý I/2022, quy mô thị trường vốn đạt 134,57% GDP năm 2021, gấp 3,5 lần quy mô năm 2015, trong đó quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu tương đương 93,8% GDP; quy mô thị trường trái phiếu đạt 40,7% GDP, trong đó trái phiếu chính phủ là 22,7% GDP, trái phiếu DN là 16,4% GDP. Tuy nhiên, TTTC Việt Nam phát triển chưa tương xứng so với tiềm năng, chưa hội nhập sâu rộng vào thị trường quốc tế với nhiều ứng dụng công nghệ mới. Có thể nêu 4 vấn đề bất cập như sau:
Thứ nhất, chức năng xác định giá cả sản phẩm, dịch vụ: quan hệ giữa lĩnh vực bất động sản (BĐS) và lĩnh vực tài chính rất chặt chẽ và có tính hữu cơ. Việc xây dựng chỉ số giá BĐS rất cần thiết vì giá BĐS được sử dụng như một trong những chỉ tiêu ổn định hệ thống tài chính và đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ra các quyết định chính sách tiền tệ.
Nền kinh tế hiện nay đang tồn tại cơ chế hai giá đất. Một giá đất theo khung Nhà nước ban hành, một giá đất do các thành phần của nền kinh tế thỏa thuận, gọi là giá thị trường. Khoảng chênh lệch giữa hai giá đất càng lớn càng gây nhiều bất công xã hội và được cho là chưa có sự hài hòa lợi ích Nhà nước - người dân - DN cũng như làm méo mó thị trường BĐS, tiềm ẩn rủi ro cho cả nền kinh tế.
Thứ hai, đối với thị trường ngân hàng, quá trình xử lý nợ xấu tại các tổ chức tín dụng (TCTD) còn nhiều vướng mắc, chủ yếu liên quan đến xử lý tài sản đảm bảo. Vấn đề này đang ngày càng nghiêm trọng khi xu thế một số DN thay vì huy động vốn sở hữu, đã ngày càng dựa vào việc huy động vốn vay của các TCTD bằng các hình thức thiếu minh bạch, phi thị trường, phát hành cổ phiếu và trái phiếu gian lận...
Thứ ba, cũng như nhiều quốc gia đang phát triển khác, mặc dù có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng hệ thống tín dụng thiếu chuyên nghiệp cùng với các yêu cầu nghiêm ngặt thiếu thực tế đối với các khoản vay đã khiến DN nhỏ và vừa, đặc biệt là hộ gia đình có thu nhập thấp bị loại khỏi mạng lưới cung cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại. Nhiều cuộc khảo sát cho thấy ngân hàng yêu cầu người vay phải có việc làm trong khu vực chính thức, với việc làm "ổn định" và thu nhập ở mức "tương xứng", trong khi đa số hộ gia đình được khảo sát đều có việc làm ở khu vực phi chính thức hoặc tạm thời trong công trường và khu công nghiệp. Điều này khiến thu nhập của họ rất thất thường và không chắc chắn. Ngân hàng yêu cầu có giấy chứng nhận quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng đất hợp lệ mới đủ điều kiện vay vốn, nhưng hầu hết hộ gia đình thu nhập thấp ở thuê nhà và không sở hữu đất. Việc thiếu khả năng tiếp cận nguồn vốn ngân hàng đã dẫn đến việc DN nhỏ và vừa và hộ gia đình chuyển sang vay tiền ở thị trường tín dụng phi chính thức hoặc tín dụng đen.
Thứ tư, quy mô TTTC phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, hạn chế khả năng phát triển và hội nhập quốc tế trong bối cảnh tài chính số, tài chính chia sẻ, tài chính xanh đang phát triển mạnh mẽ. Tính đến cuối năm 2020, tổng tài sản của các định chế tài chính Việt Nam tương đương 219% GDP, thấp hơn so với 320% GDP của bình quân nhóm 5 quốc gia hàng đầu ASEAN. Vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt khoảng 84% GDP, thấp hơn các thị trường cổ phiếu trong khu vực (từ 93-243% GDP, ngoại trừ Indonesia). Dư nợ thị trường trái phiếu đạt 44,7% GDP, còn nhỏ so với thị trường cổ phiếu và một số thị trường trái phiếu trong khu vực. Trong đó, dư nợ thị trường trái phiếu DN đạt 14,5% GDP, chỉ bằng khoảng 1/2 bình quân các thị trường trái phiếu DN châu Á (25,8% GDP).
Văn kiện Đại hội XIII nêu rõ: Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và lực lượng kinh tế nhà nước phù hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trường. Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của DN, thanh lọc những DN yếu kém. Để thực hiện tốt quan điểm ấy, theo các nhà kinh tế, đối với TTTC cần tập trung vào 4 lĩnh vực cấp bách sau:
Thứ nhất, xây dựng thể chế đồng bộ cho TTTC đảm bảo sự hình thành giá các tài sản tài chính thông qua cơ chế thị trường công khai, minh bạch. TTTC phải định giá khách quan và chính xác để tạo tính thanh khoản cho các nguồn lực khác như vốn sản xuất, con người, xã hội và tài nguyên nhằm huy động tổng lực các nguồn vốn vào việc phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, trước mắt cần sửa đổi Luật Đất đai để có sự thống nhất chính sách một giá đất đảm bảo công bằng.
Thứ hai, công tác giám sát cần được nâng cao hiệu quả với ba nội dung trọng yếu: giám sát rủi ro hệ thống, tăng cường phối hợp giữa cơ quan hoạch định chính sách và cơ quan giám sát, chất lượng thanh tra phải nâng cao theo hướng từng bước thiết lập kỷ luật thị trường, cưỡng chế thực thi các quy định pháp lý, nâng cao chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm trên TTTC (rửa tiền, chiếm đoạt tài sản, thao túng thị trường, giao dịch nội gián, trục lợi bảo hiểm...). Hệ thống TCTD cần được cơ cấu lại gắn với trọng tâm là xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các TCTD yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống.
Thứ ba, xem thị trường tín dụng phi chính thức (bao gồm cả tín dụng đen) là một thực tế khách quan trong TTTC.
Thứ tư, ngày nay với tốc độ tự do hóa toàn cầu, không một thị trường nào có thể phát triển riêng lẻ mà phải có mối liên hệ lẫn nhau. Theo đó, sẽ có một số xu hướng phát triển TTTC trên thế giới trong thời gian tới chi phối đến TTTC của từng quốc gia. Điều này đã đặt ra yêu cầu định hướng phát triển TTTC và cộng đồng DN giai đoạn 2021-2030 theo hướng bền vững, cạnh tranh lành mạnh, hiện đại, xây dựng cơ cấu hợp lý giữa thị trường tiền tệ, thị trường vốn và thị trường bảo hiểm trong nước, từng bước kết nối với TTTC quốc tế, đảm bảo huy động các nguồn lực tài chính cả trong và ngoài nước để cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh.