Việt Nam trong sự chuyển dịch của chuỗi cung ứng sản phẩm toàn cầu

Trong nước - Ngày đăng : 03:16, 25/10/2022

Với sự thay đổi ở khu vực và thế giới, có hai lĩnh vực trọng tâm được đặt ra trong thương mại toàn cầu, đó là tiêu chuẩn và chuỗi cung ứng sản phẩm. Việt Nam phải định vị được đang nằm ở đâu trong liên kết chuỗi cung ứng bắt đầu từ nguyên liệu thô và kết thúc khi cung cấp sản phẩm cho người tiêu dùng.

Tầm quan trọng của chuỗi cung ứng toàn cầu

Trên thế giới, toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ với sự phát triển của kinh tế thị trường và kỷ nguyên cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Ngày nay, người ta không chỉ nói đến quy luật tự nhiên "vạn vật hấp dẫn" (Universal Gravitation)mà còn nói nhiều đến quy luật nhân tạo "vạn vật kết nối" (Internet of things) nhờ sự tiến bộ của khoa học - công nghệ. 

Những công nghệ mới nổi cùng với tình trạng báo động về khí hậu và căng thẳng thương mại, địa - chính trị ngày càng gia tăng giữa Mỹ, Trung Quốc, Nga và EU, đang làm cho các nền kinh tế bị kìm hãm phát triển và gián đoạn chuỗi cung ứng. 

Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới, nếu không có các giải pháp hữu hiệu khắc phục sự gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu thì có thể dẫn đến tổn thất kinh tế lên tới khoảng 30%.

Việt Nam là một nền kinh tế mở, phát triển nhanh và có quan hệ kinh tế song phương với trên 230 nước và vùng lãnh thổ, quan hệ đa phương gồm 16 FTA (hiệp định thương mại tự do) với 60 nền kinh tế. Tính chung năm 2021, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa cả nước đạt 670 tỷ USD, gần gấp hai lần tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Theo báo cáo dự báo kinh tế toàn cầu của Viện Kế toán công chứng Anh và xứ Wales (ICAEW) và Oxford Economics công bố vào tháng 6/2022, Việt Nam được dự báo là quốc gia có triển vọng tăng trưởng cao trong khu vực, ở mức trên 6,5% trong năm 2022. Việt Nam nằm trong khu vực trọng tâm của ASEAN - một khu vực đã trải qua 55 năm hình thành, phát triển và đang hướng tới cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Đặc biệt, khi ASEAN nằm trong vị trí địa - chính trị quan trọng trong chuỗi cung ứng của khu vực Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương với sự hình thành của sáng kiến IPEF (khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vì thịnh vượng) cùng ý tưởng xây dựng kênh đào Kra ở Thái Lan. Kênh đào Kra là một công trình rất lớn cung cấp tuyến hàng hải kết nối vịnh Thái Lan và biển Andaman, nối Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương với những ưu điểm như tiết kiệm chi phí lớn, mức độ an toàn và an ninh cao, rút ngắn khoảng cách và thời gian so với hành trình qua eo biển Malacca.

-3104-1666672670.jpg

Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu

Có thể nói, với sự thay đổi ở khu vực và thế giới, có hai lĩnh vực trọng tâm  được đặt ra trong thương mại toàn cầu, đó là tiêu chuẩn và chuỗi cung ứng sản phẩm. Đối với Việt Nam, đây là cơ hội để chủ động xây dựng chiến lược phát triển kinh tế trong sự chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu, hay nói cách khác là phải định vị được Việt Nam nằm ở đâu trong liên kết chuỗi cung ứng đa quốc gia bắt đầu từ sản xuất nguyên liệu thô và kết thúc khi cung cấp sản phẩm cho người tiêu dùng. Vị trí của Việt Nam trong chuỗi cung ứng phải đảm bảo được tối ưu chi phí và chu kỳ sản xuất hiệu quả để các doanh nghiệp duy trì tính cạnh tranh, vì khi doanh nghiệp phát triển và mở rộng (trong khu vực, quốc tế) càng phụ thuộc nhiều hơn vào các chuỗi cung ứng, bao gồm logistics. Yếu tố này của chuỗi cung ứng không phải chỉ quan trọng trong việc phát triển doanh nghiệp lớn, mà còn rất quan trọng về mặt nâng cao hiệu quả và lợi nhuận đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các nhà đầu tư đơn lẻ.

Với sự phát triển của công nghệ số thì logistics trở thành trung tâm của chuỗi cung ứng không chỉ vì chi phí đầu tư lớn (logistics trung bình chiếm khoảng 5% tổng sản phẩm quốc nội, chiếm 20% giá cuối cùng của hàng hóa) mà nó còn có tính chất quyết định chất lượng của thương mại quốc tế bất kể khoảng cách xa gần. OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế) ước tính, lợi ích tiềm năng của ASEAN từ việc giảm chi phí vận chuyển hàng hóa giữa các nước trong khu vực sẽ làm tăng tính cạnh tranh và thương mại lên mức 4,5 tỷ USD mỗi năm, nhưng nếu khu vực này chủ động tác động trực tiếp có thể đẩy con số đó lên cao hơn nhiều. ASEAN được xây dựng dựa trên quan hệ thương mại và đó là động cơ chính cho sự tăng trưởng của khu vực và logistics là đáy của kim tự tháp cần thiết cho tất cả hoạt động thương mại đó.

Tuy nhiên, Việt Nam cũng như các nước trong khu vực có nhiều bất cập trong chiến lược phát triển và cải thiện logistics, như môi trường pháp lý, vốn đầu tư...

Theo Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2018, Việt Nam được xếp hạng 39/160 nước được điều tra, đứng đầu trong các thị trường mới nổi và xếp hạng cao nhất trong nhóm các nước có thu nhập trung bình thấp. Mặc dù vậy, để tận dụng tốt cơ hội trong sự phát triển của thương mại thế giới và lợi thế vị trí địa lý quan trọng trong khu vực, cần có chiến lược định vị Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu với ba nội dung chính:

Một là, tăng cường hội nhập kinh tế trong ASEAN và xem đó là trọng tâm để đàm phán quốc tế và xây dựng chiến lược chuỗi cung ứng quốc gia đảm bảo vị trí quan trọng của Việt Nam trong khu vực. Trong đó đặc biệt chú ý đến việc xây dựng kênh đào Kra vì nó chắc chắn sẽ thay đổi cục diện của ngành hàng hải ASEAN và vận tải quốc tế, nhất là tàu thương mại trên tuyến Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Kênh đào mới này có lợi cho Việt Nam về mọi mặt (nhất là các tỉnh, thành phía Nam), xét trên các yếu tố kinh tế. Những thế mạnh tự nhiên về đặc điểm địa lý của công rình này là lý do để các nhà chiến lược kinh tế nghiên cứu và đề xuất kế hoạch kinh doanh hàng hải nhằm định vị lại chuỗi cung ứng của Việt Nam trong định hướng quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Hai là, chủ động tham gia vào các chương trình hội nhập với các thị trường lớn trong khu vực như RCEP, ASEAN - Ấn Độ, IPEF, CPTPP... để nắm bắt và kết nối xu hướng phát triển thị trường, công nghệ và chuyển dịch của chuỗi cung ứng sản phẩm và dịch vụ.

Ba là, cần đặt trọng tâm vị trí Biển Đông trong chiến lược phát triển đồng bộ hạ tầng kỹ thuật nói chung và giao thông vận tải của đất nước nói riêng, bao gồm:

Thứ nhất, nghiên cứu, hình thành, phát triển kết nối cảng biển, hệ thống dịch vụ hỗ trợ sau cảng biển với đường không, đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, phân luồng hàng hóa để khai thác có hiệu quả cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng, cảng Cái Mép - Thị Vải, cảng Vân Phong, cảng Quy Nhơn, cảng Cái Lân, cảng Sài Gòn, cảng Cửa Lò, cảng Dung Quất...

Thứ hai, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh để tăng cường phát triển doanh nghiệp, ứng dụng công nghệ số và phát triển logistics để đảm bảo cả 5 nguồn lực: tài chính, con người, xã hội, môi trường, sản phẩm vật chất tham gia hợp lý trong các chương trình quốc gia liên quan trong bối cảnh nguồn lực tài chính hạn hẹp. Trong đó, đặc biệt chú ý đến sự tham gia của nguồn lực xã hội vì nguồn lực này chắc chắn đem lại sự hài lòng của người dân và sự phát triển bền vững quốc gia.

TS. Đoàn Duy Khương