Xác định nguồn lực quốc gia để phát triển nhanh nền kinh tế
Trong nước - Ngày đăng : 06:00, 27/02/2023
Theo số liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), hiện nay quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt trên 400 tỷ USD, đứng thứ 37 trên thế giới. Trong bảng xếp hạng quốc gia hạnh phúc nhất thế giới năm 2022, Việt Nam ở vị trí 77. Với quy mô kinh tế ngày càng tăng, quyền lực mềm và sức ảnh hưởng được công nhận rộng rãi, Việt Nam giữ vững vị thế trong top 30 quốc gia hùng mạnh nhất thế giới năm 2022 (theo xếp hạng của US News & World Report).
Quy mô và tăng trưởng kinh tế cung cấp cho người dân dịch vụ công tốt hơn, cơ sở hạ tầng dần hoàn thiện cũng như gia tăng tài sản cá nhân và chất lượng tiêu dùng... Tuy nhiên, cũng như các nước đang phát triển, quá trình phát triển kinh tế ở nước ta cũng làm phát sinh chi phí xã hội, ảnh hưởng môi trường đáng kể và dường như không làm cho mọi người hạnh phúc thực sự hoặc hài lòng hơn với cuộc sống. Vì vậy, cần có sự hài hòa hơn giữa việc thúc đẩy phúc lợi, sự hài lòng của người dân và sự tăng trưởng kinh tế.
Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 của Chính phủ xác định Việt Nam trở thành nước phát triển và phấn đấu tăng trưởng GDP khoảng 6,5-7,5%/năm, tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2050 đạt 70-75%, chỉ số phát triển con người ở mức cao, đời sống của người dân hạnh phúc, quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc.
Phát triển bền vững để đạt được mục tiêu ấy thì phải xác định được nguồn lực quốc gia và phải quản trị tốt các nguồn lực của quốc gia theo mô hình lựa chọn.
Định vị 5 nguồn lực chủ yếu
Theo quan điểm của các nhà kinh tế, trong nền kinh tế thị trường, nguồn lực là yếu tố then chốt, gồm tài chính, tài nguyên, sản phẩm vật chất, con người và xã hội. Tất cả đều là nguồn lực có khả năng tạo ra sản phẩm để hoàn thành các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Vốn tài chính trong nền kinh tế "tiền - hàng - tiền" tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, mặc dù bản thân nó không phải là sản xuất. Vốn tài nguyên được tạo thành từ các nguồn tài nguyên và hệ sinh thái của thế giới tự nhiên. Vốn sản phẩm vật chất bao gồm tài sản vật chất mà quốc gia sản xuất ra. Vốn con người là năng lực lao động của mỗi cá nhân. Vốn xã hội liên quan đến thể chế giúp duy trì và phát triển nguồn vốn con người. Nếu hoạt động xã hội mang lại giá trị gia tăng thì đó là một nguồn vốn xã hội tốt.
Quản trị hiệu quả các nguồn lực
Quản trị hiệu quả các nguồn lực là nội dung cốt lõi trong kế hoạch, chiến lược quy hoạch tổng thể quốc gia, kể cả cộng đồng doanh nghiệp nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội một cách nhất quán và bền vững.
Về bản chất, 5 nguồn lực vốn phải được liên kết với nhau và phải được quản trị đồng bộ trong quá trình phát triển kinh tế thị trường. 5 nguồn lực kinh tế - xã hội phải được Chính phủ vận hành để tạo ra dòng chảy hàng hóa và dịch vụ bằng cách sử dụng các nguồn vốn mà không làm cạn kiệt chúng. Tuy nhiên, cần lưu ý 4 nội dung khi triển khai từng nguồn lực:
Thứ nhất, với nguồn lực tài chính, cần xác định quy mô nền kinh tế quốc gia trong mối quan hệ với quốc tế. Có chính sách tài khóa và tiền tệ linh hoạt để điều hành kinh tế vĩ mô. Cần có cơ chế kinh tế thị trường phù hợp để định giá chính xác các nguồn vốn nhằm khai thác tối đa và hạn chế việc lãng phí do chính sách phi thị trường tạo ra sự độc quyền dẫn đến tham nhũng, đầu cơ và cạnh tranh không lành mạnh.
Thứ hai, với nguồn vốn sản phẩm là nguồn lực nền tảng của nền kinh tế, cần có chính sách thúc đẩy và phát triển sản phẩm "made in Vietnam" trong các ngành sản xuất chủ lực để đảm bảo chỗ dựa vững chắc cho nền kinh tế và an ninh quốc phòng.
Thứ ba, với nguồn lực tài nguyên, trong đó đất đai là tài nguyên lớn nhất, cần đảm bảo có quy hoạch tổng thể, cần có luật định quy định trách nhiệm và quản trị rõ ràng, minh bạch từ cấp cơ sở đến Trung ương. Hơn hết, phải có sự giám sát thường xuyên, không phụ thuộc vào nhiệm kỳ chính trị để tránh lợi ích nhóm, cục bộ địa phương và tạo ra các nhà tư bản địa ốc thân hữu, tạo ra sự chênh lệch giàu nghèo, môi trường bị hủy hoại.
Thứ tư, vốn xã hội đến từ thể chế kinh tế, môi trường pháp lý, kinh doanh, văn hóa, giáo dục, tổ chức xã hội và gia đình. Với dân số đứng thứ 13 trên thế giới, Việt Nam có nguồn lực xã hội và con người to lớn nếu như phát huy tối đa các nguồn lực này. Cần nhận thức vốn con người là một nguồn lực khác biệt hẳn so với 4 nguồn lực còn lại vì sức mạnh của nó phụ thuộc vào động lực của chính nó và chỉ có nguồn vốn này mới tạo ra đổi mới và sáng tạo. Nguồn lực này, nếu được dưỡng dục trong một môi trường gia đình, xã hội lành mạnh sẽ trở thành động lực với mục đích chung để tạo sự cộng hưởng phát triển xã hội. Được như vậy, kinh tế quốc gia chắc chắn sẽ có sự phát triển đột phá vì phẩm chất đổi mới và sáng tạo của con người thường là kết quả của tự do, bình đẳng và là khởi nguồn của sự thịnh vượng.
Chính vì vậy, để quản trị tốt vốn xã hội, trước tiên phải xây dựng được thể chế và cấu trúc chính trị - xã hội để đảm bảo phát triển nguồn vốn con người. Các tổ chức chính trị - xã hội cần xây dựng theo hướng thượng tôn pháp luật, đảm bảo dân chủ. Chính phủ nên đẩy mạnh cơ cấu và tinh giản bộ máy theo Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng: "Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả”.
Bộ máy Chính phủ từ Trung ương đến địa phương cần tinh giản theo hướng tập trung quản trị tốt mô hình 5 nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội và môi trường, liên kết hiệu quả 6 vùng không gian (trung du và miền núi phía bắc, đồng bằng sông Hồng, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long). Quy hoạch và các nhiệm vụ, giải pháp cũng nên xây dựng theo hướng này để đảm bảo sự nhất quán, hiệu quả trong thực thi, giám sát, kiểm tra.
Đảng ta xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII là "khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc...". Triển khai nhiệm vụ đó, nhận thức cũng như quản trị toàn diện 5 nguồn lực sẽ đưa đất nước trở thành nền kinh tế đứng trong top 20 trên thế giới khi chúng ta kỷ niệm 100 năm ngày thành lập nước.