Doanh nhân Hoàng Tăng Bí: Cổ động duy tân, mở mang công thương (Kỳ 2)
Chân dung - Ngày đăng : 06:00, 07/05/2023
Trụ sở Đông Kinh Nghĩa Thục tại số 4, phố Hàng Đào, Hà Nội (Nguồn: Thư viện lịch sử) |
Kỳ 2: Người đi đầu của phong trào “Nhà Nho đi buôn”
Không chỉ là một thành viên sáng lập, một diễn giả nổi tiếng của Trường Đông Kinh Nghĩa Thục, cụ Hoàng Tăng Bí còn biết đến là một nhà kinh doanh có tiếng ở Hà Nội, người đi đầu trong phong trào "Nhà Nho đi buôn" do Đông Kinh Nghĩa Thục phát động.
Trường Đông Kinh Nghĩa Thục ngày càng phát triển thì chi phí duy trì hoạt động càng nhiều. Do là ngôi trường tư thục đầu tiên ở Việt Nam thành lập dựa trên số tiền được quyên góp từ những nhà hảo tâm, gia đình học viên và từ số vốn ban đầu của ban lãnh đạo trường nên khi số lượng học viên ngày càng tăng, vấn đề tài chính gặp nhiều khó khăn.
Theo học giả Nguyễn Hiến Lê: "Các cụ thiếu kinh nghiệm, thiếu tổ chức, không dự tính số thu và số chi cho từng khoản, đã không bắt hội viên đóng nguyệt liễm, học sinh đóng học phí, mà thấy việc gì nên làm cũng không từ nan, thành thử số thu mỗi ngày một giảm mà số chi mỗi ngày một tăng, nào tiền mướn nhà, tiền đóng bàn ghế, tiền giấy mực cho giáo sư và cả học sinh, tiền cơm buổi trưa cho mấy chục người ăn, tiền khắc bản gỗ, in sách và tiền giúp thanh niên xuất dương nữa. Như vậy nền tài chính làm sao vững được và sáu bảy tháng sau khi trường mở cửa, quỹ đã gần cạn".
Trước tình hình khó khăn về tài chính của trường, khi soạn các bài ca khuyến công, khuyến thương, ban lãnh đạo trường đã nghĩ đến việc mở hiệu buôn và xưởng máy để kiếm lời giúp quỹ trường. Nhưng do ban lãnh đạo trường không đủ tiền để tổ chức những cơ sở đó, nên chỉ khuyên hội viên ai có vốn thì đứng ra kinh doanh, rồi nếu có lời, tùy ý giúp trường bao nhiêu cũng được. Cũng từ đó, Đông Kinh Nghĩa Thục phát động phong trào "Nhà Nho đi buôn" với mục tiêu gây dựng tài chính giúp đỡ cho sự phát triển của Đông Kinh Nghĩa Thục và còn làm thay đổi nhận thức của giới sĩ phu nho học đương thời về việc kinh doanh, phá bỏ được cái tục khinh công, thương từ mấy nghìn năm truyền lại.
Phố Hàng Đào, nơi doanh nhân Hoàng Tăng Bí lập Công ty Đông Thành Xương (Nguồn: Blogspot.com) |
Không hô hào suông, nhiều thành viên trong Đông Kinh Nghĩa Thục đã thành lập các hiệu buôn để kinh doanh. Cụ Hoàng Tăng Bí là cá nhân đi đầu trong phong trào "Nhà Nho đi buôn" ngay từ khi mới phát động. Cụ Bí mở hiệu Đông Thành Xương ở phố Hàng Gai, Hà Nội. Cửa hiệu của cụ Bí cũng chính là tư gia của ông ngoại - cụ Nguyễn Trọng Hiệp - Kinh lược xứ triều Nguyễn và là thầy dạy của vua Thành Thái.
Đông Thành Xương là công ty chuyên buôn bán hàng nội hóa và làm công nghệ. Theo nghiên cứu của học giả Nguyễn Hiến Lê: "Nơi đây lần đầu tiên dùng những khung cửi rộng dệt vải xuyến bông phù dung lớn (kêu là xuyến bông đại hóa), rồi nhuộm đen, bán rất chạy. Cụ Hoàng còn chế ra các thứ trà tàu, trà mạn, trà hột ướp sen và một thứ giấy hoa tiên để cạnh tranh với Hoa kiều".
Dưới sự điều hành của cụ Hoàng Tăng Bí, Đông Thành Xương trở thành một hiệu buôn rất có tiếng tại Hà thành: vốn xây dựng lớn nhất, trang hoàng đẹp, bán nhiều đồ nội hóa như quạt lông, đồ tre đan tại làng Đại Đồng, Sơn Tây, khay trúc ở Nghệ An...
Từ danh tiếng của cửa hiệu Đông Thành Xương, phong trào "Nhà Nho đi buôn" nhanh chóng lan rộng ra cả nước. Nhiều sĩ phu đương thời đã hùn vốn lập công ty, lập hiệu buôn, khách sạn và nhà hàng trên khắp cả nước. Ví dụ như ở hiệu buôn Sơn Thọ của cụ Nguyễn Trác ở Phú Thọ, hiệu buôn Phúc Lợi Tế của cụ Tùng Hương ở tỉnh Phúc Yên, ở Sài Gòn có Chiêu Nam Lầu của cụ Nguyễn An Khương, ở Mỹ Tho có Minh Tân khách sạn của cụ Huỳnh Đình Điển, ở Long Xuyên có hiệu buôn Tân Hợp Long của cụ Hồ Nhật Tân...
Kính phục Hoàng Tăng Bí và các sĩ phu, trong diễn ca Nam Thiên phong vận, người đương thời ca ngợi các cụ: "Xã Đông Ngạc Hoàng quân Tăng Bí/ Tánh thông minh tuổi trẻ khác thường/Tướng môn dòng dõi họ Hoàng/ Á môn giá cũng xem thường nhẹ không/ Đêm ngày dốc một lòng vì nước/Đông Thành Xương đứng trước ra buôn... Cho hay những bậc tài danh/ Vì giang sơn phải dấn mình bước ra".
Sự lớn mạnh của Đông Kinh Nghĩa Thục nhanh chóng trở thành vấn đề lo ngại đối với chính quyền thực dân Pháp. Vào tháng 11/1907, chính quyền thực dân ra lệnh giải tán trường và đầu năm 1908, chính quyền thực dân tiếp tục đưa ra lệnh cấm hội họp, diễn thuyết đối với Đông Kinh Nghĩa Thục. Sau khi Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa, Hoàng Tăng Bí thôi dạy học nhưng vẫn tiếp tục mở mang thủ công nghệ, buôn bán và vẫn giữ liên lạc để đàm luận thời cuộc với các yếu nhân, giảng viên Đông Kinh Nghĩa Thục.
Sau vụ chống thuế ở Trung Kỳ (tháng 1/1908) và đặc biệt là vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội (tháng 6/1908) khiến thực dân Pháp kinh hãi, chính quyền thực dân xem Đông Kinh Nghĩa Thục là "cái lò phản loạn ở Bắc Kỳ". Khi phát hiện thấy sự dính líu của trường với nghĩa quân của Đề Thám ở Yên Thế, thực dân Pháp đã đàn áp thẳng tay, bắt hầu hết giáo viên, giải tán hội buôn, đóng cửa Đăng Cổ Tùng Báo, cấm diễn thuyết, cấm lưu hành và tàng trữ các tác phẩm của nhà trường.
Trường tư thục Thăng Long (Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I) |
Tháng 10/1908, nhiều thành viên của trường như Nguyễn Quyền, Lê Đại, Vũ Hoành bị kết án khổ sai chung thân, Dương Bá Trạc bị kết án 15 năm tù, Hoàng Tăng Bí bị kết án 5 năm khổ sai đi đày ở Côn Đảo. Cụ Hoàng Tăng Bí nhờ được sự bảo lãnh từ nhạc phụ Cao Xuân Dục - Thượng thư Bộ Học nên chỉ bị giam ở nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội một năm, bị quản thúc tại Huế 15 năm.
Suốt 15 năm chịu sự quản thúc tại Huế, cụ Hoàng Tăng Bí tiếp tục dùi mài kinh sử đi thi và đỗ phó bảng năm 1910, nhưng không ra làm quan. Cụ Bí mở trường tư dạy học, viết kịch bản của ba vở tuồng với tinh thần yêu nước: Đệ bát tài tử Hoa Tiên ký (1913), Nghĩa nặng tình sâu - về Mị Châu Trọng Thủy (1926), Thù chồng nợ nước - về Trưng Trắc, Trưng Nhị (1927).
Sau 15 năm bị quản thúc tại Huế, Hoàng Tăng Bí trở lại nghề dạy học, dạy Việt văn ở Trường Gia Long. Thực dân Pháp biết danh tiếng của cụ Bí nên cấm không cho dạy. Cụ Bí sang cộng tác với Báo Trung Bắc tân văn, viết nhiều bài về đạo đức, nhân cách của người cầm bút trong thời đại Âu hóa với quan niệm tiến bộ của người trọng lễ, nghĩa, trí, tín. Cụ Bí còn nghiên cứu và viết cuốn Lược khảo lịch sử Trung Quốc với bút danh Tiểu Mai và dịch một số tác phẩm văn học của Pháp nhưng không có điều kiện xuất bản.
Cụ Hoàng Tăng Bí đã truyền lại chí khí và lòng yêu nước cho con trai Hoàng Minh Giám. GS. Hoàng Minh Giám sau này trở thành Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là người trực tiếp trợ giúp Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc đàm phán với nhà ngoại giao Jean Sainteny của Chính phủ Pháp, dẫn đến việc ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946.
Cụ Hoàng Tăng Bí từ giã cõi đời tại làng Đông Ngạc tháng 3/1939, sau những năm hoạt động yêu nước sôi nổi, khi mới 56 tuổi.