![]() |
Đổi mới có thể là công cụ cho sự thành công của các nền kinh tế, ở tầm vĩ mô và vi mô. Trong khi đầu tư cung cấp động lực mạnh mẽ cho sự đổi mới thì mối quan hệ này không phải lúc nào cũng đơn giản. Bảng xếp hạng năm 2020 của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO) chỉ ra điều đó. Biểu đồ phân tích các quốc gia đổi mới nhất trong từng nhóm thu nhập của Ngân hàng Thế giới (WB), dựa trên dữ liệu từ chỉ số đổi mới toàn cầu (GII) của WIPO, đánh giá các quốc gia trên 80 chỉ số đổi mới như nghiên cứu và phát triển (R&D), đầu tư mạo hiểm và sản xuất công nghệ cao.
Trong khi những quốc gia giàu hơn tiếp tục dẫn đầu sự đổi mới toàn cầu, GII cũng cho thấy rằng các quốc gia có thu nhập trung bình - đặc biệt là ở châu Á - đang có bước tiến ấn tượng. Trong đó, Việt Nam đứng vị trí thứ hai về xuất khẩu ròng công nghệ cao. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao hơn tốc độ tăng trưởng nhập khẩu, làm cho cán cân thương mại chuyển biến mạnh mẽ.
Theo số liệu vào năm 2017, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước đạt 424,87 tỷ USD, trong đó xuất khẩu chiếm 50,31%. Xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp đã khẳng định vị trí trọng tâm trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao tăng từ 22,9% năm 2016 lên 50% năm 2020. Cùng với đó là làn sóng các công ty, tập đoàn công nghệ dồn dập đổ vốn vào Việt Nam với quy mô ngày càng rộng hơn.
![]() |
Thứ hạng của Việt Nam trong báo cáo về chỉ số GII của WIPO trong những năm gần đây so với các quốc gia ASEAN - Nguồn: Cục Sở hữu Trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ |
Ngay trong thời gian đầu năm 2021 khi còn bị ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19, Việt Nam vẫn chứng kiến sự nhộn nhịp cam kết đầu tư mới cũng như bổ sung nguồn vốn lớn của các tập đoàn công nghệ thế giới. Và việc tăng vốn đầu tư của các tập đoàn công nghệ ngay từ những tháng đầu năm 2021 là một minh chứng cho thấy Việt Nam đang đứng trước không ít cơ hội để thu hút nhiều hơn nguồn vốn đầu tư nước ngoài nói chung và sản phẩm công nghệ cao nói riêng.
Trên thực tế, lĩnh vực kinh tế, quy định tại các quốc gia có thể có tác động to lớn đến mức độ đổi mới. Ngược lại, quá trình đổi mới cũng trở thành động lực kinh tế, kích thích đầu tư hơn nữa. Ngoài ra, Việt Nam nằm trong danh sách các quốc gia có bước chuyển mình nhanh nhất trong những năm qua xếp hạng của GII 2020. Hiện Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ và Philippines là những quốc gia châu Á thuộc top 50 trong danh sách này.
Chỉ số sáng tạo toàn cầu (GII - Global Innovation Index) được đưa ra năm 2007 bởi Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Toàn cầu (WIPO - World Intellectual Property Organization) thuộc Liên Hiệp Quốc, kết hợp với một số công ty lớn và tổ chức phi lợi nhuận khác. Mục đích của chỉ số này là đưa ra các đánh giá về độ sáng tạo/đổi mới của mỗi quốc gia một cách toàn diện nhất. Theo cách đánh giá truyền thống, chỉ số sáng tạo/đổi mới của quốc gia theo các tiêu chí như số lượng tiến sĩ, số lượng bài báo nghiên cứu khoa học được công bố, số bằng sáng chế, kinh phí dành cho R&D chiếm bao nhiêu phần trăm GDP... Tuy nhiên, các tiêu chí đó không phản ảnh đúng nhiều mặt mức độ sáng tạo của quốc gia. Chỉ số mới được đánh giá không chỉ dựa trên độ sáng tạo trong nghiên cứu khoa học, mà còn chỉ số sáng tạo trong xã hội, chỉ số sáng tạo trong các mô hình kinh doanh. Chỉ số GII được đưa ra dựa trên hai nhóm nhóm chỉ số đầu vào và nhóm chỉ số đầu ra. - Nhóm chỉ số đầu vào gắn chặt với các yếu tố quốc dân, làm nền tảng và tiền đề cho các hoạt động đổi mới/sáng tạo, gồm 5 chỉ số cơ bản: tổ chức (Institution), nguồn nhân lực và nghiên cứu (Human capital and research), cơ sở hạ tầng (Infrastructure), độ chín của thị trường (Market sophistication) và mức hoàn thiện kinh doanh (Business sophistication). - Nhóm chỉ số đầu ra biểu thị cho kết quả của quá trình đổi mới/sáng tạo, gồm 2 chỉ số cơ bản: kết quả khoa học (Scientific output) và thành quả sáng tạo (Creative output). |
Ý KIẾN CỦA BẠN