Quản trị rủi ro ngân hàng: Kỳ vọng vào Basel III, IFRS 9

TS. PHAN MINH NGỌC| 02/02/2017 06:50

Basel III, IFRS 9 là hai trong số những quy định tài chính mới và quan trọng trong lĩnh vực quản trị rủi ro ngành ngân hàng được đề xuất áp dụng vào năm 2018.

Quản trị rủi ro ngân hàng: Kỳ vọng vào Basel III, IFRS 9

Kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2007 - 2008, nhiều nước đã rút ra bài học cần thiết và bắt đầu thực thi nhiều luật lệ, quy định mới. Động thái này nhằm củng cố sức khỏe hệ thống tài chính để đề phòng những cuộc khủng hoảng tương tự có khả năng xảy ra. 

Đọc E-paper

Hai trong số những quy định tài chính mới và quan trọng nhất được đề xuất áp dụng năm 2018 là tỷ lệ đòn bẩy của các ngân hàng thương mại (NHTM) quy định bởi Ủy ban Basel về Giám sát tài chính và nằm trong bộ tiêu chuẩn giám sát tài chính mới là Basel III, và IFRS 9 (Tiêu chuẩn Báo cáo Tài chính số 9) được quy định bởi Ủy ban Tiêu chuẩn Kế toán Quốc tế.

Những quy định khác trong Basel III yêu cầu các NHTM ngừng sử dụng các thước đo nội bộ để đánh giá rủi ro, sẽ được áp dụng từ năm 2017. Tác động của những luật lệ mới về tài chính thường sẽ đến sớm hơn ngày chúng có hiệu lực. Có nghĩa là ngay trong năm mới 2017 này, các luật lệ tài chính mới đã bắt đầu tác động đến các chủ thể trong nền kinh tế, mặc dù ngày có hiệu lực của chúng là đầu năm 2018.

Thế giới đang thay đổi

Basel III được đề xuất nhằm giảm sự tùy tiện của các ngân hàng trong việc hạch toán rủi ro. Theo quy định mới có hiệu lực đầu năm 2017, các NHTM sẽ không còn được phép sử dụng các mô hình đánh giá rủi ro nội bộ để đánh giá rủi ro của các đối tác và khách hàng. Từ năm 2018, quy định mới này sẽ được áp dụng mở rộng ra cả việc chứng khoán hóa. Trong những năm sau đó, các ngân hàng sẽ phải đánh giá các khách hàng vay vốn dựa trên các tiêu chuẩn đề xuất bởi Ủy ban Basel.

Dù chưa có hiệu lực ngay trong năm 2017 này, nhưng Basel III hiện đang bị phê phán là đã làm giảm mức độ thanh khoản toàn cầu và tốc độ tăng trưởng tín dụng. Nên khi nó chính thức có hiệu lực đầu năm 2018 thì tác động của nó sẽ còn lớn hơn thế nhiều.

Khi được thực thi, những luật lệ này được cho là sẽ thắt chặt hơn nữa việc cho vay của các NHTM, buộc các NHTM theo xu hướng chỉ cho vay những doanh nghiệp (DN) tốt nhất. Và như thế có nghĩa là có thể sẽ làm gia tăng "dịch" phá sản trên toàn cầu vì nhiều DN không tiếp cận được vốn vay ngân hàng, nhất là các DN vừa và nhỏ.

Trong khi đó, IFRS 9 thay thế cho phiên bản trước đó là IAS 39. IFRS gồm 3 chủ đề: phân loại và đo lường các công cụ tài chính, ghi nhận sớm tổn thất kỳ vọng cho các tài sản tài chính, và hạch toán phòng ngửa rủi ro.

>>Ngành ngân hàng và áp lực từ chuẩn Basel II

Việc thực thi IFRS 9, theo nhiều chuyên gia phân tích tín dụng, nó sẽ làm tăng nợ xấu tại một số ngân hàng lên thêm ít nhất 1/3. Khi nợ xấu, hay sự ghi nhận chúng tăng lên, các ngân hàng sẽ phải tăng vốn chủ sở hữu lên tương ứng. Nói cách khác, các ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn và tốn kém hơn khi cho vay khách hàng.

Theo các quy định mới ở trên, với khách hàng là các DN có doanh thu cao hơn và tỷ lệ đòn bẩy thấp hơn thì các NHTM sẽ cần ít vốn chủ sở hữu hơn (vì DN khách hàng ít rủi ro hơn). Như vậy, các NHTM có động cơ chỉ cho vay các DN lớn nhất, cạnh tranh nhất (và tức là có doanh thu và lợi nhuận cao nhất) để giảm thiểu rủi ro. Điều này có nghĩa là các DN nhỏ hơn sẽ có rất ít cơ hội được vay vốn để phát triển.

Việt Nam: Chậm nhưng không thể đứng ngoài

Bắt đầu từ tháng 2/2016, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới chỉ định 10 NHTM, gồm: BIDV, VietinBank, Vietcombank, Techcombank, ACB, VPBank, MB, Maritime Bank, Sacombank và VIB, thực hiện thí điểm phương pháp quản trị vốn và rủi ro theo tiêu chuẩn Basel II - "người tiền nhiệm" của Basel III.

Basel II có 3 trụ cột: yêu cầu về vốn tối thiểu, giám sát tuân thủ, và kỷ luật thị trường. Basel III cũng có 3 trụ cột như trên, nhưng có thêm chữ "tăng cường", có nghĩa là các tiêu chuẩn của Basel III sẽ cao hơn của Basel II. Ví dụ, về yêu cầu vốn tối thiểu, Basel III yêu cầu các ngân hàng phải duy trì một lượng vốn tối thiểu là 4,5% của tổng tài sản (tính theo trọng số rủi ro) từ cổ phiếu phổ thông, so với mức 2% trong Basel II.

Khác biệt lớn khác là về phương pháp ước tính rủi ro tín dụng. Basel II khuyến khích các ngân hàng tự phát triển và áp dụng phương pháp đánh giá tín dụng nội bộ (IRB) để xác định lượng vốn tối thiểu ngân hàng cần phải nắm giữ đối với mỗi một khoản cho vay. Tại mỗi NHTM áp dụng Basel II, IRB được xây dựng dựa trên sự ước tính rủi ro tín dụng của mỗi khoản cho vay.

Tuy là một phiên bản cũ nhưng việc thực thi Basel II cũng đã và sẽ khá khó khăn và chật vật ở Việt Nam vì nhiều nguyên nhân. Trước tiên, Basel II đòi hỏi quốc gia áp dụng phải có một hệ thống tài chính phát triển và mạnh, vì sự áp dụng sớm Basel II ở những nước có nguồn lực hạn chế sẽ làm phân tán các nguồn lực dành cho các ưu tiên cấp bách, làm loãng thay vì củng cố sự giám sát rủi ro tài chính.

>>Ngành ngân hàng và áp lực thanh khoản ngoại tệ cuối năm

Tiếp đó, áp dụng thành công Basel II đòi hỏi phải có số liệu chính xác, đáng tin cậy và kịp thời. Nếu rủi ro không được tính toán, hay bị phóng đại hoặc bị tính thấp đi có thể làm vô hiệu hóa tác dụng tích cực của Basel II. Ngoài ra, việc thiếu vắng đội ngũ chuyên gia phân tích rủi ro tín dụng tại các NHTM, cũng như chi phí tốn kém để áp dụng Basel II cũng là những trở ngại cho việc thực thi các tiêu chuẩn của Basel II ở Việt Nam.

Do đó, việc thực thi Basel II ở Việt Nam có thể được nhìn nhận như một bước tập dượt cho Basel III, phiên bản cao hơn và đòi hỏi nhiều hơn so với Basel II. Tuy vậy, cũng giống như Basel III và những luật lệ mới được áp dụng từ năm 2017, Basel II cũng sẽ phân biệt giữa các đối tượng cho vay là DN lớn với các DN nhỏ hơn, vì DN nhỏ hơn thường được xem là có độ rủi ro cao hơn các DN lớn, và do đó đòi hỏi các ngân hàng phải có nhiều vốn hơn.

Nếu không có các biện pháp khắc phục phù hợp thì nhiều DN, nhất là các DN vừa và nhỏ, sẽ không thể tiếp cận được vốn ngân hàng. Việc xây dựng các quỹ bảo lãnh tín dụng hay giải quyết các vấn đề về tài sản thế chấp vay vốn là một trong những biện pháp như vậy, tuy chỉ có tác dụng hạn chế.

Bởi vì, ví dụ, quỹ bảo lãnh tín dụng chỉ có thể ở quy mô nhỏ do hạn chế về nguồn vốn, trong khi việc phân tích, đánh giá rủi ro để ra quyết định bảo lãnh của các quỹ này thường không thể tốt bằng các NHTM nên dễ dẫn đến khả năng "cụt vốn" khi các DN vừa và nhỏ được bảo lãnh vay vốn mất khả năng thanh toán.

Bên cạnh đó, việc để cho các NHTM áp dụng sử dụng các mô hình đánh giá rủi ro nội bộ để đánh giá rủi ro của các đối tác và khách hàng theo quy định của Basel II cũng là điều cần được xem xét và điều chỉnh. Bởi chính vì quy định lỏng lẻo này đã góp phần làm nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính 2007 - 2008 và Basel III được ra đời để khắc phục bất cập này.

Do đó, để tránh những bất ổn và đổ vỡ trong hệ thống ngân hàng, song song với việc thực thi nhiều quy định trong Basel II, Việt Nam cần thiết phải thống nhất và áp dụng một mô hình đánh giá rủi ro chung, có thể dựa trên những tiêu chuẩn mà Ủy ban Basel đưa ra, cho tất cả các NHTM để tránh tình trạng các rủi ro không được lượng hóa đầy đủ và hợp lý.

Nếu thấy rằng các tiêu chuẩn đánh giá rủi ro của Ủy ban Basel đưa ra là quá cao, quá khó thực hiện cho Việt Nam trong giai đoạn hiện nay thì cần có một sự thỏa hiệp nào đó nhưng phải đảm bảo các tiêu chuẩn chung đánh giá rủi ro ở Việt Nam sẽ phải cao hơn các tiêu chuẩn cũ theo Basel II.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đọc nhiều
Quản trị rủi ro ngân hàng: Kỳ vọng vào Basel III, IFRS 9
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO